Trước hết phải nói về nó, Caroline May, vì hôm nay là sinh nhật nó.
Chúc mừng sinh nhật Bống. Như thường lệ, mẹ
chỉ có một mong mỏi duy nhất là mong con sống say mê!
Có lẽ nó đang sống say mê dù một cuộc sống
không mẹ cha hay người thân bên cạnh. Những chuyện kể hằng ngày qua viber của
nó cũng làm cho một người quá nửa cuộc đời vẫn còn thấy ngạc nhiên.
“Mẹ à, con thích học môn lịch sử”. Tôi tròn
mắt, lúc còn ở nhà chưa bao giờ nó từng thích những môn như lịch sử địa lý,
hình ảnh quen thuộc của nó luôn là ôm cuốn vở lịch sử và ngủ gục trên salon lúc
hai ba giờ sáng. Nó từng phàn nàn sao trên đời này lại có môn lịch sử, thế mà
giờ đây nó nói thích môn lịch sử, mà lịch sử Mỹ nữa mới ghê.
Một câu chuyện gần như là hài hước khi thầy
giáo biết nó là người VN, thầy hỏi nó, VN giờ còn cộng sản không. Nó trả lời,
còn chút chút. Nghe chuyện nó kể mà bố và mẹ nó ôm bụng cười. Nó nói, con có
biết cộng sản là gì đâu, có nghe ai nói gì đâu. Lại cười nữa. Cũng đúng, khi ở
VN nó còn nhỏ quá và môn lịch sử chỉ là những dòng chữ vô tri vô giác chưa bao
giờ cuốn hút nó, nên nó không hề nhớ là phải.
Nó nói, thầy dạy lịch sử kể chuyện hay lắm,
mẹ có biết vì sao Mỹ thua VN không? Tất nhiên là mẹ không biết rồi. Thế là nó
say sưa kể lại những đời tổng thống Mỹ, những mặt xấu mặt tốt, những ưu điểm
hay sai lầm của các tổng thống đều được nêu ra một cách minh bạch, không che
đậy, không định hướng suy nghĩ. Học lịch sử như thế thì sao học trò không thích
được. Nghe nó diễn đạt bằng tiếng Việt lẫn tiếng Anh, tôi mới chợt hiểu vì sao
việt kiều về nước thường bị chê bai là nói chuyện hay chêm tiếng Mỹ. May có
chút vốn từ vựng tôi mới hiểu được những điều nó kể và cho nó từ tiếng Việt
tương đương mà tuổi của nó chẳng bao giờ biết những từ này, chẳng hạn như “tối
cao pháp viện”, còn như vụ watergate, chịu.
Nhìn nó mặc đồ đi học mới lạ lùng nữa chớ,
quần dài bên trong, quần short bên ngoài, một áo thun bên trong, áo bên ngoài
thì không cài nút để bay phất phơ. Có bữa nó băn khoăn không biết hôm sau mặc
gì đi học. Mặc gì chẳng được con, đi học không đồng phục là khỏe mà, mai mặc
lại đồ hôm nay đi. Không được mặc hai ngày một bộ đồ đâu, người ta nhìn sẽ nói
mình ở dơ. Hóa ra không đồng phục cũng không phải là sướng.
Cách đây vài ngày, đang ngồi ăn phở với
“trai đẹp”, chợt hỏi anh, ngày này năm ấy anh đang ở đâu. Anh hiểu liền, ngưng
ăn phở và đáp: Đà Nẵng. Ủa sao anh không ở Huế mà vô Đà Nẵng chi vậy? Vừa nuốt
phở anh trả lời: “chạy giặc chớ chi?” Hỏi anh có nhớ gì không ngày đó, khi anh
mới 18 tuổi.
Anh kể. Ngày 23 ba bảo "con phải đi
gấp". Sao anh phải chạy? Cậu anh bị giết mà, không chạy sao được. Anh và
một người bạn học tên Nhuân chạy chiếc xe honda 50 từ Huế vào Đà Nẵng. Trên
đường đi đã thấy một biển người từ bên này chân đèo Hải Vân cho đến chân đèo
bên kia, chỉ có người và xe cộ tranh nhau thoát về Đà Nẵng. Ngày 24 không thấy
gia đình vào, sáng hôm đó anh lại cùng với Nhuân quyết định chạy về Huế. Đi từ
sáng sớm mà 3 giờ chiều mới đến Huế. Thành phố đã thưa thớt người lắm rồi. Em
biết không, nhiều con đường không còn một bóng người, hoang vắng đến ghê rợn,
chỉ còn những con chó đói đi kiếm ăn, kêu lên những tiếng bi ai. Về tới nhà, ba
mợ còn ở đó. Ba mợ chuẩn bị đi vào Đà Nẵng bằng đường biển phía Thuận An vì
không còn phương tiện đi vào Đà Nẵng. Ngay chiều hôm đó anh quay lại Đà
Nẵng. Cả gia đình đã hẹn gặp nhau ở Đà Nẵng. Trên đường đi một khung cảnh
thê lương chết chóc đạn bom đã bao phủ con đường. Rạp người trên xe mà
chạy, phía sau là tiếng súng và những thây người ngã gục... Vào tới Đà
Nẵng thì sáng sớm hôm sau đã đi ra phía biển Mỹ Khê để mong đón gia đình.
Rồi những ngày sau đó anh làm gì? Ngày nào
cũng ra biển nhìn xác người chết lần tìm xem có người thân của mình không.
Ngày 26/3 thì nghe tin Huế đã hoàn toàn thuộc về phía bên kia. Cứ nghĩ là từ
đây cha me, anh em chia cắt. Một buổi sáng thấy dòng người đi đến kho gạo để
kiếm gạo về ăn. Anh cũng theo vào rinh gạo. Đói mà. Anh nghe bên trong có tiếng
người la thét. Gạo đổ xuống trên đầu người ta. Anh rinh được một bao gạo, nhưng
ra một ông lính mặc đồ rằn ri giơ súng bắt bỏ xuống. Thằng bạn anh lấy được một
bao nho nhỏ về chia ra cho mấy gia đình trong xóm. Ngày 29/3 Đà Nẵng thất thủ.
Anh nhìn thấy những người mặc đồ đen băng đỏ trên tay mang súng đi trên đường.
Một loạt đạn vang lên, người áo rằn ri đổ gục....Nước mắt ràn rụa anh chạy
nhanh về nhà trọ.
Ngày 30/3 anh quay lại Huế tìm cha mẹ
anh em. May thay tất cả cũng vừa từ Thuận An quay về lại Huế vì đạn bắn rát quá
đi ra biển không được...Phở nguội ngắt. Tôi cũng không bắt anh hồi tưởng nữa.
Tôi nói, khi nào rảnh anh viết lại cho em đọc ké. Ừ, phải ghi lại chớ.
Sáng nay uống cà phê với má. Má, ngày này
năm đó mình về lại Nha Trang chưa hay còn trong Thủy Triều. Má nói vẫn còn ở
trong Thủy Triều chớ, có biết gì đâu. Mấy ngày sau nghe mấy thằng lính nói,
ngoài Nha Trang người ta treo cờ hết rồi, hai bác còn ở đây làm gì. Nhà hai bác
thấy cửa mở toang hoang, bị người ta đốt nữa. Khi về lại thì đồ trong nhà người
ta dọn sạch, chỉ có cái giường khám bệnh bằng sắt nặng quá, họ rinh không được,
nên mới còn. Mấy tấm nệm má may bằng cái mền nhà binh, bị đốt hết. Đồ đạc trong
nhà mình, má thấy nằm trước sân nhà bà Sáu bà Tám. Những người hàng xóm, chắc
họ nghĩ mình chạy luôn nên qua rinh đồ. Sau đó đòi lại mà cũng chỉ được một ít,
người ta giấu mình không thấy.
Ngày trước, nhà luôn có tiệc tùng, những
chén kiểu chất đầy tủ với những con búp bê Nhật, sau một ngày chạy giặc về
không còn chén ăn cơm, nhà bà Tư, (nhà chồng chị Nhu Lan Huynh), thấy vậy mang
cho chén dĩa để ăn cơm. Những ngày sau đó tôi còn nhiều lần qua ăn chực nhà bà
Tư nữa vì nhà không còn soong nồi bếp núc gì. Lần đầu tiên được nếm cơm trộn
khoai mì. Cũng có lẽ vì thế mà bây giờ nhìn thấy xe khoai mì dù rất thơm ngon,
rất hấp dẫn trên đường biển bán cho du khách, tôi vẫn còn ác cảm với món khoai
mì.
Hồi ức lúc 10 tuổi, không còn là bao. Chỉ
nhớ một buổi chiều, hôm đó má dắt leo lên xe lam. Từ Thành chạy xuống Nha
Trang. Má thuê một phòng ngủ (tên là Thái Lai thì phải), chờ ba chạy xe xuống
rồi tính đường chạy. Má khóa trái cửa phòng, chốc chốc thì hé ra nhìn. Lính rằn
ri đi tới đi lui khắp hành lang, má nói hình như tàn binh từ Ban Mê Thuột chạy
xuống. Có một ai đó vừa thấy má hé cửa phòng thì xô cửa vào. Tôi thấy má ập cửa
lại chốt trái và thét lên “tội tui lắm chú ơi”. Sau đó má đẩy giường, bàn và
tất cả những gì có trong căn phòng để chặn cửa lại. Những tờ tiền má nhét lót
trong tấm mền dù hai lớp, rồi má vào toilet trút hết giấy vệ sinh dơ ra, nhét
nữ trang vào dưới đáy giỏ rác. Rồi, chờ đợi. Hôm sau chúng tôi chạy vào Thủy
Triều (Cam Ranh)
Thủy Triều, một động cát trắng mênh mông,
ngày nào cũng thấy máy bay quần trên cao. Bữa cơm đầu tiên, chúng tôi mỗi đứa
được miếng thịt ram to bằng bàn tay. Bữa sau, mỗi đứa chỉ còn miếng thịt bằng
quân cờ domino. Cơm ăn có cát nhai rào rạo. Những đứa trẻ được lên bãi cát
chơi, riêng tôi lúc nào cũng bị quản thúc, vì quanh bụng tôi là một ruột ngựa
rất nặng màu đen, tôi đã đeo một đống vàng của má tôi và các dì.
Trước sân của ngôi nhà chúng tôi tạm trú,
có một chiếc ghế làm bằng những nẹp gỗ dài, dưới tàng cây to. Ba tôi ngồi nhiều
giờ ở đó. Lần đầu tiên tôi thấy ba tôi khóc. Ở cái tuổi lên 10, tôi không phân
biệt được ba tôi khóc hay cười, đó là âm thanh nấc lên lạ lẫm mà trước đó tôi
chưa bao giờ chứng kiến. Chỉ đến khi nghe những lời ba tôi nói, tôi mới biết là
ba khóc. Ba nói, phải chạy thôi con ạ, cộng sản vào là nó sẽ treo ba lên cây
lóc từng miếng thịt. Ba tôi đã chạy hai lần một lần năm 1954 và lần này. Đó
cũng là lần đầu tiên tôi được nghe hai chữ “cộng sản”.
Ngày trở về lại, anh Thành, anh họ tôi lúc
đó mới 20 tuổi chở tôi và dì 5 trên chiếc xe 67 về lại Nha Trang. Mưa như trút
nhưng anh vẫn chạy. Sụp ổ gà, té lăn ra đường. Chúng tôi vào một mái hiên nhà
nào đó, dì 5 tôi thay quần áo cho tôi, khi kéo quần xuống, phát hiện thấy dây
ruột ngựa. Dì vội vã kéo lên. Không cần thay đồ nữa. Đồ ướt tiếp tục chạy về
Nha Trang. Ba ở lại, tìm đường vô Sài Gòn nhưng chỉ nghe nói “chúng nó bắn quá,
đi không được”. Anh ở Sài Gòn ngày ngày chờ tin, dì 6 kêu anh đi. Anh nói, gia
đình con chỉ có một mình con là con trai.
Nhà tôi có cái sân thượng rộng. Nhiều lần
đón những đoàn bộ đội ngủ trên đó. Những ấn tượng không đẹp, tôi không còn muốn
nhớ, muốn nhắc nữa. Chỉ nhớ, lương khô của bộ đội ăn sao mà ngon thiệt.
Đã 40 năm, không dám so sánh cuộc đời mình
với ai khác, chỉ so với ba má. Từng giai đoạn trong cuộc đời, tôi thường nghĩ
về ba má tôi như thế nào khi ở tuổi bằng tôi bây giờ, đã đi qua một đời sống
thăng trầm ra sao, và cố tưởng tượng ra những cơn bão đời và bão lòng mà người
đã trải qua.
Chốt lại, dù một quá khứ của đời sống thế
nào đi nữa, hôm nay, tôi vẫn muốn hát câu “tôi là ai mà còn ghi dấu lệ, tôi là
ai mà còn trần gian thế, tôi là ai mà yêu quá đời này”. (TCS)
Lời quê chắp nhặt. Hồi ức mịt mờ, có khi
đúng khi sai. Cái nào sai xem như là vì hôm nay… Cá tháng Tư.
No comments:
Post a Comment