Nguyên nhân Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết về 10 vị Phật tổ giáng sanh trong ngày vị lai:
Một
hôm bà Gotami là dưỡng mẫu của Đức Phật, em ruột của hoàng hậu Mahà Mayà, tự
tay bà quay chỉ dệt, may và nhuộm lấy 2 tấm y cà sa thật quý định đem dâng cho
Đức Phật. Ngài chỉ lãnh lấy 1 lá y, còn 1 lá y ngài bèn bảo đem dâng cho chư
tăng. Bà đem dâng từ vị đại đức cho tới chót không ai dám nhận vì nghĩ rằng nếu
không ai dám lãnh thì bà sẽ đem dâng lại cho Đức Phật. Sau cùng có một vị tỳ
khưu mới tu, tên là Āsajjī, vị này thọ lãnh tấm y và tính đem dâng lại cho Đức
Phật. Các vị còn phàm có ý khi dể vì cho rằng người không đức tin và không tôn
kính.
Bà
Gotamì có ý buồn vì dâng cho vị mới tu, sợ mình ít phước. Đức Phật hiểu ý bèn
giảng giải rằng: "Ai có lòng trong sạch dâng cúng đến chư tăng thập phương
thì sẽ được nhiều phước báu hơn dâng đến Như Lai".
Khi
xong lễ, vị Āsajjī bèn đem tấm y ấy vào nơi Phật ngự mà dâng cho Ngài, và
nguyện thành một vị Phật tổ trong ngày vị lai. Đức Phật cười, lúc ấy 2 cái răng
nhọc túa hào quang thấu đến cung trời Phạm thiên, 2 cái ở hàm trên thấu xuống
tới cõi địa ngục A tỳ. Đại đức Ananda thấy vậy bèn quỳ xuống bạch Phật rằng:
-"Có
điều chi lạ mà Đức Thế Tôn cười rõ rệt?"
(Vì
chư Phật không bao giờ cười mà không có nguyên nhân).
Đức
Phật đáp rằng:
-
Này Ananda, tỳ khưu Āsajjī đây sau này sẽ thành 1 vị Chánh Đẳng Chánh Giác kế
vị Như Lai tên là Di Lặc Phật (Mettayya). Đức Phật chỉ nói tóm tắt có bao nhiêu
rồi vào tịnh thất nghỉ.
Lúc
ấy chư tăng đang tụ hội tại giảng đường bàn bàn luận với nhau, không biết chư
Phật tổ vị lai oai lực và giáo pháp như thế nào. Những lời bàn luận ấy lọt vào
nhĩ thông Đức Phật, Ngài bèn ra ngự nơi giảng đường, lúc ấy đại đức Xá Lợi Phất
quỳ xuống bạch Phật rằng:
-Xin
ngài mở lòng từ bi giảng giải cho biết oai lực và giáo pháp của Phật vị lai.
Nhân
đó mà Đức Phật mới giảng giải về 10 vị Phật vị lai.
-oOo-
Đức
Phật giảng rằng: Này Xá Lợi Phất, sau khi Như Lai nhập diệt rồi thì có 5 điều
tiêu hoại là:
1
- Adhigama Antaradhāna: là tiêu hoại đạo quả. Đúng 1 ngàn năm sau khi Như Lai
nhập diệt thì không còn có ai đắc đạo quả A-la-hán, luôn cả lục thông và huệ
phân tích thuộc nằm lòng Tam Tạng nữa.
2
- Pariyatti Antaradhāna: là tiêu hoại về pháp học, là khi đúng 2 ngàn năm không
có ai thuộc nằm lòng Tam Tạng và mất lần lần. Bắt đầu mất tạng Luận, Kinh rồi
mới tới Luật (vì Luật mà mất thì đạo cũng không còn, Luật là nền tảng của Phật
giáo - vinayo sàsanamulam).
Thật
vậy, hiện nay ít có ai chú trọng mà học cho nằm lòng tạng Luận vì khó nhớ và lý
luận sâu xa lắm.
3
- Pātipatti Antaradhāna: mất pháp hành, vì khi đúng 3 ngàn năm thì ít ai mến
pháp hành, vì thực hành theo là 1 điều khó.
Mà
thật vậy, hiện nay Phật pháp mới qua gần 2498 năm mà rất ít nhà sư ưa mến sự
hành đạo giải thoát.
4
- Linga Antaradhāna: mất tăng tướng, khi đúng 4 ngàn năm thì chư Tăng lúc bấy
giờ như người thế, vì hội nhau lại bàn rằng, mặc y xùng xình khó bề làm công
việc rồi đồng lòng bỏ y cà-sa, chỉ mặc quần áo như kẻ thế mà lấy một miếng vải
vàng (ca-sa) cột vào cổ tay hoặc vắt trên vai, hoặc giắt mép tai cho biết người
tu thôi, vì bận việc làm ruộng rẫy bán buôn như người thế tục. Trong lúc ấy có
ít người tu đi hóa trai (trì bình khaất thực), chỉ lấy hai cái quảo (thúng nhỏ
lớn hơn cái ô) thoa dầu chai, để lên 2 cái gióng, quảy đi khuất thực như người
gánh đồ đi bán (Tam Tạng, quyển 28 trang 226).
5
- Dhātu Antaradhāna: là tiêu hoại xá lợi, hiện nay xá lợi rải rác khắp nơi cho
chư Thiên và nhân loại chiêm bái, khi đúng 5 ngàn năm thì tất cả những xá lợi
ấy bay về đóng thành khối, hóa thành 1 vị Phật tại Bồ Đề Đạo Tràng, Trung Ấn
Độ, thuyết pháp độ chúng sanh đắc thành đạo quả vô số kể trong 7 ngày rồi lửa
tự nhiên trong kim thân phát cháy tiêu Xá lợi. Kể từ ấy, giáo pháp Ngài hoàn
toàn tiêu diệt.
Sau
khi mãn thời kỳ Phật pháp rồi, tâm chúng sanh không phân biệt tội phước chi cả,
lần lần hung dữ độc ác, tuổi thọ lại giảm lần lần xuống cho đến khi 10 tuổi
hoặc ít hơn chút ít. Như hiện nay ai biết lo tu hành, đức hạnh hiền từ, thì
người ta khen ngợi, trái lại lúc ấy chúng sanh ai hung dữ độc ác, bất lương thì
người lại khen. Mà ác thì dễ làm hơn thiện, nên con người càng ngày càng hung
dữ, nhìn nhau như các loài thú dữ muốn cắn xé ăn thịt nhau. Lúc ấy sanh lên một
trận tàn sát lẫn nhau (Satthantara Kappa - Tam Tạng quyển 18, Chư Thiên, trang
148), thây chết dày đặc trên quả địa cầu. Chỉ còn lại ít người lương thiện
không ưa thích sự sát hại, chạy trốn vào rừng sâu núi thẳm. Khi yên trận tàn
sát ấy rồi, ra ngoài gặp ai còn sót lại, cũng đồng xin đừng sát hại lẫn nhau
nữa (đã giữ được 1 giới sát sanh) nên con những người ấy tuổi thọ lên được 20
hoặc 25 tuổi. Rồi lại hứa không lấy của ai (giữ giới không trộm cắp) những
người con cháu lại thêm tuổi lên đến 50 năm. Cứ thế mãi lần lần giữ cả ngũ giới
là không sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói láo, uống rượu thì tuổi thọ của những
con cháu sau này ngày càng càng thêm lên mãi cho đến tuổi 1 A-tăng-kỳ năm mới
chết.
Sống
mãi không chết cũng chán, mới có 1 hạng người nói rằng mình làm theo ông bà
hoài nên không thấy ai chết hết, lại bắt đầu sát sanh nên con cháu lại hạ xuống
còn nửa A-tăng-kỳ, rồi lần lần bỏ bớt giới hạnh thì tuổi lại càng hạ xuống mãi
mãi cho đến khi chúng sanh tuổi còn 10 muôn năm.
Lúc
ấy Đức Phật Di Lặc mới giáng sanh dạy đạo. Ngài giáng sanh tại xứ Ketu Mettī,
cha tên Subrama, mẹ tên Bhramavatī, lúc ở thế có 30 muôn cung phi mỹ nữ hầu hạ.
Khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia. Lúc xuất gia thì bay cả lâu đài có vô số
vua, chư hầu và quan quân đồng xuất gia theo ngài hành đạo. Trong 7 ngày thì
đắc quả dưới cây Mù u, tuổi thọ 8 muôn năm, bề cao ngài 44 thước. Ngài dòng
Bà-la-môn, hào quang ở nơi ngực, hai bàn tay và đầu gối ngài sáng ra cả ngày và
đêm thấu đến 10 thế giới sa bà. Người ta không thể phân biệt ngày đêm vì hào
quang che lấp cả mặt trời và mặt trăng. Người ta chỉ thấy bông nở hoặc tàn,
hoặc là nghe tiếng gà gáy mà phân biệt ngày đêm luôn luôn cho đến khi ngài nhập
diệt. Ngài đã thực hành tu 10 pháp Ba-la-mật 16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp.
Này
Xá Lợi Phất, Như Lai chỉ kể về 1 pháp Ba-la-mật của Ngài là: có 1 kiếp sanh làm
Chuyển luân vương tên Sangha Cakka. Bồ-tát có 7 báu trị vì thiên hạ 101 nước
chư hầu trên thế giới. Khi hay tin một vị sa di cho hay rằng có Đức Phật, Pháp,
Tăng đã ra đời, Ngài vui mừng đến ngất người ba lần, sau lại bố thí ngôi báu,
cho sa di ấy, bèn đi chân không đến nơi Phật ngự. Đi một ngày đầu lở cả hai
chân, máu chảy ròng ròng đi không được nữa, qua ngày sau ngài bò bằng hai tay
và hai đầu gối, được 1 ngày cũng chảy máu cả. Qua ngày sau ngài bò không được
bèn trườn đi bằng ngực, lát ngực máu chảy ròng ròng, không thể trườn được nữa,
nhưng chưa gặp Đức Phật, chỉ mới nửa đường.
Lúc
ấy Đức Phật Sirimatti biết được bèn hóa ra người đánh xe chạy tới bảo tránh,
Bồ-tát nói tôi không thể nào tránh được vì mình mẩy lở hết. Đức Phật bèn hỏi
người đi đâu. Bồ-tát nói tôi muốn đi gặp Phật. Đức Phật nói: thôi để tôi đưa
dùm cho. Rồi ngài xuống xe bồng Bồ-tát để lên xe giả. Đánh xe 1 chút thì nói
đây tới cửa chùa, mời ông xuống. Lúc ấy có vị trời Đế Thích biết được bèn mang
1 gói cơm và 1 bầu nước tới cho, phần thì bịnh và đói nên lãnh cơm nước. Khi thọ
thực xong thì tất cả vết thương đều lành lại hết và khỏe mạnh lại như thường.
Bèn vào yết kiến Phật nhằm lúc đang thuyết pháp người ta hằng vạn vạn, nhưng êm
như tờ.
Bồ-tát
vào đảnh lễ xong xin Đức Phật thuyết pháp cho nghe, khi nghe được một câu kệ
lại bạch Phật xin ngừng để ngài bố thí pháp. Ngài bèn lấy móng tay nguyện bén
như gươm rồi cắt lấy đầu mình để trên hai bàn tay mà cúng dường cho Pháp bảo,
sau khi Phật thuyết xong thì ngã xuống chân Ngài mà chết.
Này
Xá lợi phất, vì Bồ-tát không kể đến thân mình bò trườn đến lở hết, nên khi
thành chánh quả có hào quang túa ra nơi ngực, hai bàn tay và hai đầu gối luôn
luôn thấu đến 10 ngàn thế giới và không tiếc mạng sống, dám bố thí cho pháp bảo
nên khi thành chánh quả tuổi thọ đến 8 muôn năm.
Sau
khi Đức Phật Di Lạc nhập diệt rồi thì tuổi thọ chúng sanh càng ngày càng giảm
xuống cho tới khi tuổi chỉ còn 10 năm là già rồi. Lần lần không còn chúng sanh
nào sanh lên quả địa cầu cả. Trước khi 100.000 năm tới Kiếp Hoại thì chư thiên
bay trên không trung kêu la báo tin cho biết còn mấy năm nữa thì sẽ tiêu hoại
quả địa cầu. Khi ấy chúng sanh sợ sệt chán nản, ai ai cũng ráng lo tu hành lần
lần sanh về cõi trời dục giới. Chư thiên ở cõi trời nầy cũng hãi hùng kinh
khủng quả địa cầu cháy thì cũng cháy luôn cả 6 tầng trời dục giới và 2 cõi trời
sắc giới là: Pārisajjā và Porohitta nữa, nên kinh sợ rồi ráng tham thiền cho
đắc các cõi thiền bậc trên, cho đến khi sanh về hết trên cõi trời sắc giới. Khi
quả địa cầu không còn ai ở nữa thì mặt trời lần lần mọc lên 2 mặt trời, 1 thời
gian thật lâu, lại mọc lên 3, 4, 5, 6, 7 mặt trời. Lúc bấy giờ nước biển khô
khan không còn 1 giọt. Chừng ấy, lửa phát lên cháy cả quả địa cầu rồi tiêu hoại
và cháy luôn cả 6 cung trời dục giới và 2 cõi trời sắc giới tầng dưới chót. Kể
từ đó chỉ còn khí hư u minh cho đến khi cấu tạo quả địa cầu mới khác. Từ đó 1
thời gian là A-tăng-kỳ kiếp không có vị Phật tổ nào ra đời dạy đạo cả.
-oOo-
Kế
sau đó có quả địa cầu có 2 vị Phật tổ giáng sanh là: Rāmadeva và Dhammarājāmuni.
Vị
thứ nhất tên Rāmadeva khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, thành đạo dưới gốc
cây thị, tuổi thọ 9 muôn năm, bề cao ngài 40 thước, hào quang túa ra sáng khắp
cả thế giới luôn luôn ngày đêm chớp nháng tới lui trên hư không chẳng ngừng
nghỉ. Do nhờ pháp Bà-la-môn có cây Như ý thọ (Kālabriksa) mọc lên rất nhiều để
cho chúng sanh cần dùng. Cây như ý thọ này có mãnh lực phi thường là bất cứ ai
muốn điều chi như y phục, vật thực, đồ trang điểm... lại tới cây ấy ước thì sẽ
được theo như ý muốn. Đây là nhờ pháp nguyện lực Ba-la-mật của Đức Phật. Cho
nên, chúng sanh lúc ấy khỏi cực nhọc nên ai ai cũng đều tu hành, vì chúng sanh
nào sanh ra kịp Phật thì Ngài độ tận chúng sanh, ít lắm cũng được sanh về cõi
trời hết thảy.
Nói
về 1 pháp Ba-la-mật của ngài: có 1 kiếp sanh ra tên là Nārada gặp Đức Phật Kassapa
(Ca diếp) ra đời, vào nghe pháp thấy hào quang trong mình Đức Phật phóng ra
sáng ngời rực rỡ bèn phát tâm trong sạch bố thí mạng sống mình, cúng dường cho
Phật và nguyện cho thành 1 vị chánh giác có nhiều hào quang như ngài. Nguyện
xong liền lấy miếng vải nhúng dầu quấn vào mình đốt lên cúng dường cho Đức
Phật. Khi lửa cháy lên thì mùi bay lên thơm bát ngát. Khi cháy xong chỗ ấy mọc
lên 1 bông sen bằng ngọc, mọi người đều cho là ông Nārada sẽ thành một vị Phật
tổ như ý nguyện.
Kế
sau đó, Đức Phật Dhammarājā-Muni (chính là đức vua Ba Tư Nặc, Pasenadi Kosala)
khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, đắc đạo dưới cây Dừng, tuổi thọ 5 muôn
năm, bề cao ngài 8 thước. Khi ngài đi đâu mỗi bước đều có bông sen bằng bánh xe
mọc lên đỡ bàn chân ngài, khi ngồi thì có bông sen bằng 7 thứ ngọc mọc lên làm
bảo tọa cho ngài ngồi. Do nhờ pháp Ba-la-mật của Đức Phật mà có cây Như ý thọ
mọc lên rất nhiều để cho bá tánh cần dùng có đủ thực phẩm và đồ trang sức.
Nói
về 1 pháp Ba-la-mật: có 1 kiếp ngài sanh làm người nghèo khổ lắm, tên là Suddhā
Mānava, ở mướn coi giữ ao sen cho người. Họ cho phép mỗi bữa chỉ được hái 2
bông sen đổi gạo mà chỉ độ thôi. Một hôm đang đem 2 bông sen đi bán gặp Đức
Phật Konāgamana, Đức Phật thấy bèn chúm chiếm cười. Y liền bạch Phật tại sao
ngài cười. Phật đáp: Người là em ta, vì ta đã thành Chánh giác, còn người sẽ
thành Chánh giác trong ngày vị lai vậy. Nghe xong hết sức vui mừng, tính nhịn
đói bữa đó để đem 2 bông sen dâng cho Phật và nguyện cho thành Chánh giác như
ngài. Đức Phật thọ lấy bông sen và trải ra ngồi lên trên. Thấy nắng lắm ngài
bèn nguyện cho đừng nắng Đức Phật . Liền khi ấy có 4 cây mọc lên và 2 khổ vải
kết thành một tấm trần che Đức Phật cho khỏi nắng. Đức Phật bèn cầu chúc và thọ
ký cho. Khi ấy tất cả chư thiên và phạm thiên nghe Đức Phật cầu chúc thì đều
đồng nhau hoan hô và cầu chúc theo, tiếng nghe rền vang inh ỏi cả trời. Do sự
hy sinh nhịn đói ấy nên khi thành chánh quả có cây Như ý thọ mọc lên có đủ vật
thực cho chúng sanh dùng và bố thí bông sen cho Phật, nên sau thành chánh quả,
đi mỗi bước đều có bông sen mọc lên đỡ bàn chân ngài.
Kế
tiếp, quả địa cầu sau có 1 vị Phật tổ ra đời tên là Dhammasāmi (chính là Ma
vương thành Phật vậy) khi còn Bồ-tát thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, đắc đạo
dưới cây Long thọ (Sala) tuổi thọ 10 muôn năm, bề cao ngài 40 thước, hào quang
trong mình Phật luôn luôn phóng ra sáng ngời như mặt trời mặt trăng, luôn luôn
chớp nhoáng tới lui không ngớt. Do nhờ pháp Ba-la-mật, khi Đức Phật đi, đứng
nằm ngồi đều có cây lọng bề cao 16 do tuần che ngài luôn, và có hầm vàng hầm
bạc mọc lên để cho chúng sanh cần dùng.
Nói
về một pháp Ba-la-mật: khi ấy tiền kiếp ngài sanh lên tên là Bodhināma làm quan
đại thần. Một hôm Đức Phật Ca Diếp (Kassapa) nhập đại định, đức vua trong xứ ấy
hay bèn cho quan quân canh giữ không cho ai được phép làm phước tới Đức Phật
khi ngài xả định, nếu ai phi phép thì bị xử trảm. Lúc ấy vị đại thần Bodhināma bèn
biểu vợ con sửa soạn thực phẩm và 1 lá y định đem dâng cho Đức Phật. Sáng ra
ông đem vật thực và lá y tới trước chùa thấy quân lính bao vây dày đặc. Lính thấy
ông đem đồ lại thì hỏi, ông nói thật rằng đem đồ dâng cho Phật. Quân lính liền
bắt ông đem về cho vua, vua truyền lịnh xử trảm. Lúc ấy Đức Phật vừa xả định
biết được liền phóng hào quang ra cho vị ấy thấy ngài ở trước mặt, ông rất mừng
và đem vật thực và lá y dâng cho Phật, Đức Phật có vỗ đầu ông và nói xin cho
nhà ngươi vô hại, rồi ngài thọ thực. Vị quan ấy dâng xong nguyện cho thành được
1 bậc Chánh Giác trong thời vị lai. Đức Phật thọ ký cho vừa xong thì quân lính
đem ông ra xử trảm. Lúc chém ông thì mặt đất rung rinh làm cho đền đài nhà vua
đều sụp đổ. Vua sợ hãi bèn truyền lệnh cho đóng mấy cửa thành. Lúc ấy chỗ chém
Bồ-tát liền mọc lên một tòa lâu đài bằng 7 thứ ngọc có 1 ngàn tiên nữ chầu chực
và 16 hầm vàng bạc mọc lên 4 góc thành và cây Như ý thọ cũng mọc lên do oai lực
phước báu của Bồ-tát. Còn vị quan ấy thì sống lại như thường, tuổi được 5 trăm,
có cả vợ con và quan quân hầu hạ. Do phước báu liều mạng sống dâng cơm cho
Phật, khi sanh ra kiếp nào cũng có thứ lúa Sali mọc lên hằng hà sa số cho bá
tánh gặt, cần dùng bao nhiêu cũng không hết.
Sau
khi ấy, có 1 quả địa cầu có 2 vị Phật tổ ra đời. Vị thứ nhất tên là Nārada (chính
là Rahula Asurin là chúa của bọn Atula thành Phật). Khi ấy thấy 4 điềm rồi chán
nản bỏ nhà xuất gia, đắc đạo dưới cây trầm hương, bề cao ngài 60 thước. Hào
quang phóng ra luôn luôn như chớp nháng, có thứ hào quang hình như bông sen
sáng ngời phóng ra quanh quẩn luôn chung quanh Đức Phật. Do phước Ba-la-mật của
Đức Phật mà mặt địa cầu trở thành thực phẩm, có 7 vị ngọt ngon chúng sanh móc
lấy mặt đất mà dùng như vật thực.
Nói
về một pháp Ba-la-mật: có 1 kiếp Bồ-tát sanh ra làm vua tên Sirigutta có 8 vị
Bà-la-môn tới nghe về pháp nguyện thành một Bà-la-môn cho vua nghe, rồi xin
ngài cho ngôi vua, đức Bồ-tát cho hết rồi dẫn vợ và 2 con đem ở trên núi và thọ
trì 6 giới theo các đạo sĩ và ẩn tu nơi ấy. Lúc ấy, có 1 con Dạ xoa bề cao 60
thước, tới trước mặt Bồ-tát xin 2 đứa con để về ăn thịt. Bồ-tát liền cho 2 đứa
con và nói tôi đã ăn 7 con tượng, 14 con ngựa, 20 con thú rừng mà còn đói lắm
xin ngài tội nghiệp cho 2 đứa con để ăn thịt. Bồ-tát liền cho 2 đứa con cho Dạ
xoa rồi nguyện cho thành 1 vị Phật tổ để độ tận chúng sanh. Lúc ấy mặt địa cầu
rung rinh, rúng động. Tất cả chư thiên và phạm thiên đều vỗ tay hoan nghênh sự
toàn thắng của Bồ-tát, tiếng nghe vang rền cả trời, lại giông mưa sấm chớp gầm
thét nghe inh ỏi. Vừa lúc con Dạ xoa đem 2 đứa con ra mà ăn tươi nuốt sống, vừa
cho Bồ-tát ngó thấy. Nhưng ngài không buồn giận, lại vui thích với phước báu
ngài đã làm.
(Lời soạn giả: Chúng ta phần đông đều nói từ bi,
tội nghiệp mà chỉ từ bi với vợ con mình thôi, còn vợ con người có điều chi khổ
sở, mình chỉ lấy con mắt ngó mà cười, chớ không tội nghiệp. Đừng nói chi tới bố
thí vợ con cho người, mà dầu có ai rủ đi xuất gia tu hành, thì nói tôi vì lòng
từ bi, tội nghiệp vợ con bỏ đi không đành, nói nghe cho cao thượng, chớ không
lẽ nói mình vì quyến luyến hoặc vì ái tình mà dứt bỏ đi không được thì sợ thẹn.
Còn trái lại các vị Bồ-tát ngài không vì từ bi, tội nghiệp vợ con mình, mà lại
từ bi thương xót tất cả chúng sanh hơn là thương mình và vợ con mình. Vì thấy
cái khổ chúng sanh chịu không được rồi không nghĩ tới mình hoặc vợ con mình mới
dứt bỏ mà bố thí được).
Kế
sau đó Đức Phật Rangsi Muni (chính là Sonabrāhma), khi thấy 4 điềm rồi chán nản
xuất gia, đắc đạo dưới cây sơn, tuổi thọ 5 ngàn năm, bề cao ngài 30 thước. Hào
quang trong mình Phật phóng ra luôn luôn, lúc ban ngày thì màu vàng, ban đêm
thì màu xanh, sáng ngời như ngọc, nhờ hào quang của Đức Phật nên chúng sanh khi
ấy màu da đẹp như vàng ròng, không dơ bẩn. Nhờ pháp Ba-la-mật của Phật mà chúng
sanh chỉ lấy hột bông cải trồng xuống rồi mọc lên đủ thứ vật thực phẩm và đồ
vật dụng đủ thứ không thiếu món chi.
Nói
về một pháp Ba-la-mật của ngài: có 1 kiếp Bồ-tát sanh làm người lái buôn tên Māgha
Mānava rất thông thạo về nghề buôn bán một lời mười, nhưng 4 lần bị tai hại là
bị chìm thuyền, nhà cháy, cướp giựt, sau lại bị nhà vua tịch thâu gia sản.
Bồ-tát chán nản, bỏ đi chỉ lấy được 1 lá y vàng và 10 muôn lượng vàng đem theo
để làm vốn. Gặp một vị tỳ khưu Thượng thinh văn của Đức Phật Kakusandha nhập
đại định 7 ngày, Māgha Mānava trong sạch đem y và của bố thí hiến cho ngài và
nguyện cho thành vị Phật tổ để độ tận chúng sanh. Vị A-la-hán cầu chúc xong chỗ
ấy bèn mọc lên một cây Như ý thọ có 1 cái đền bằng ngọc cho ông ở nơi ấy.
-oOo-
Kế
quả địa cầu sau đó có 2 vị Phật tổ ra đời, vị thứ nhất tên Devadepa (chính là Subha
Brahma) khi thấy 4 điềm bèn chán nản xuất gia, đắc đạo dưới cây Cầy, tuổi thọ 8
muôn năm, bề cao ngài 40 thước, hào quang trong mình Phật túa ra luôn luôn màu
vàng rực rỡ do nhờ phước Ba-la-mật của Phật mà bụi trần trên mặt đất biến thành
gạo Sali và cây Như ý thọ mọc lên có đủ thực phẩm cho chúng sanh dùng.
Nói
về 1 pháp Ba-la-mật: có 1 kiếp Bồ-tát sanh làm tượng (voi chúa) tên là Chadanta
có 6 ngà, gặp xác một vị A-la-hán niết bàn gần chỗ ở, bèn nguyện cưa trên hư
không rớt xuống rồi cưa ngà làm chỗ để thiêu xác vị A-la-hán ấy và làm phước
trong 7 ngày rồi nguyện cho thành Phật tổ, sau khi mãn kiếp ấy liền sanh về
cung trời Đâu suất.
Kế
sau đó Đức Phật Narasi Muni (chính là Totī Brahma thành đạo), khi thấy 4 điềm
rồi chán nản xuất gia, thành đạo dưới cây Cẩm lai, tuổi thọ 80 năm, bề cao ngài
30 thước, hào quang trong kim thân Phật túa ra luôn ban ngày ánh sáng như ngọc
mani trắng, ban đêm thì màu vàng rực rỡ. Do phước Ba-la-mật của ngài, có lúa Sali
và cây Như ý thọ mọc lên để cho bá tánh cần dùng, người ta lúc ấy do hào quang
của Phật mà màu da như vàng ròng. Khi Đức Phật ngự nơi nào đều có cây lọng bằng
bảy thứ ngọc báu cao 3 do tuần luôn luôn ở trên hư không, che Đức Phật.
Nói
về một pháp Ba-la-mật: có 1 kiếp Bồ-tát sanh làm Nanda Mānava, gặp Đức Phật độc
giác bèn phát tâm trong sạch đem y cà sa đáng giá 100.000 đồng, dâng cho ngài
và nguyện cho thành 1 bậc chánh giác để độ tận chúng sanh.
Sau
khi Đức Phật Narasi Muni nhập diệt rồi có 1 thời không gian là 1 A-tăng-kỳ đại
kiếp không có Đức Phật nào ra đời.
Kế
sau đó có 2 vị Phật tổ ra đời, vị thứ nhất tên là Tissa (chính là voi Nālāgiri thành
đạo), khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, đắc đạo dưới cây da, tuổi thọ 8
muôn năm, bề cao ngài 40 thước.
Hào
quang trong mình Phật phóng ra đủ thứ, có thứ sáng rực như lửa cả ngày và đêm,
có thứ trắng xóa nhìn giống như chiếc thuyền, có thứ như cây lọng, có thứ như
cây phướn, có thứ túa ra theo 1000 lông mày của ngài, luôn luôn quay cuộn theo
ngài. Do phước Ba-la-mật của ngài có nhiều cây Như ý thị mọc lên có đủ thực
phẩm và đồ trang sức cho chúng sanh dùng theo ý muốn.
Nói
về một pháp Ba-la-mật: Có 1 kiếp ngài sanh làm vua tên Dhamma Sena một hôm đi
dạo vườn hoa với 2 con và vợ, có hai con Dạ xoa tới xin đứa con, khi về gần tới
thành có 1 ông già lụm cụm tới xin hoàng hậu. Đức vua cho luôn. Ông than mình
nghèo khổ không có chi nuôi bà, vua bèn cho cả ngôi báu cho ông già ấy. Khi tôn
vương xong, đức Bồ-tát bèn xuất gia theo đạo sĩ, đắc các pháp thần thông.
Một
hôm nghe tin Phật Konāgamana ra đời bèn bay tới đãnh lễ nghe pháp. Khi Đức Phật
thuyết được một câu kệ thì ông xin Phật nghỉ, để ông bố thí pháp bảo, bèn lấy
móng tay, nguyện cho bén như gươm cắt đầu bố thí pháp và nguyện cho thành 1 vị
Phật tổ để độ chúng sanh thoát khỏi khổ, lúc ấy toàn thể địa cầu đều rung rinh
lạ lùng ghê gớm.
Kế
sau đó, có 1 vị Phật tổ ra đời tên là Sumangana (là voi tượng Pālilāya thành
đạo) khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia dưới cây Mù u, tuổi thọ 10 muôn năm,
bề cao Đức Phật 30 thước, hào quang Đức Phật phóng ra luôn luôn quanh quẩn theo
ngài, ban đêm thì màu trắng ngời như bạc, ban ngày thì màu sáng ánh như vàng
ròng. Do phước Ba-la-mật của ngài có nhiều cây Như ý thọ mọc lên, có đủ thực
phẩm và đồ trang sức cho chúng sanh dùng không thiếu món chi, người ta lúc ấy
sung sướng vô cùng, như cảnh trời vui mừng hát múa theo những tiếng nhạc du
dương khi gió cuốn đưa chạm vào lá những cây Như ý thọ ấy.
Nói
về 1 pháp Ba-la-mật: khi ngài còn làm Bồ-tát, có 1 kiếp sanh làm chuyển luân
vương, Bồ-tát có báu giàu sang trong 4 biển. Một hôm vua sai vị bá hộ bảo đi
tìm vàng ngọc, ông đi tới một nước kia, khi hay tin Đức Phật Kakusandha, đã ra
đời, ông bèn vẽ hình Phật và về tâu cho vua nghe tự sự, vua hết sức vui mừng
đến chết giấc 3 lần. Khi tỉnh lại ngài bèn nhường ngôi cho vị bá hộ ấy vì có
công cho ngài hay tin Đức Phật ra đời, rồi ngài đi chân không tới 1 cây đại thọ
ngồi nghỉ, rồi thành tâm đảnh lễ Đức Phật từ phương xa và nguyện 8 món đồ xuất
gia bay tới cho ông. Đức Phật biết được tâm ông bèn sai 8 món phụ tùng bay đi
tới chỗ vua nghỉ, vua rất vui mừng và thọ lãnh xuất gia tại chỗ ấy. Đoạn ông
lấy mão ngọc thảy lên không trung và sai đi bạch Phật rằng: ông đã xuất gia và
đi đến đãnh lễ Phật. Mão ấy bay đến nơi Phật ngự và bạnh y như lời vua sai, rồi
đức vua lần vào xóm đi khất thực xin ăn, độ xong, tham thiền và đắc thiền, rồi
bay tới nơi Phật ngự. Khi tới chùa gặp Phật, hết sức vui mừng đến chết giấc 3
lần. Khi tỉnh lại xin Đức Phật thuyết pháp cho nghe được 1 câu kệ, bèn xin Đức
Phật ngưng thuyết để cho ông bố thí pháp bảo, vì pháp bảo quý giá, vô giá, rồi
ông lấy móng tay nguyện cho bén như gươm cắt đầu mình để lên 2 bàn tay mà bố
thí pháp cho Đức Phật và nguyện xin cho đắc thành chánh quả để độ tận chúng
sanh, Đức Phật thọ ký cho.
Đức
Phật Thích Ca giảng giải thêm cho Xá Lợi Phất rằng:
-
Này Xá Lợi Phất, nếu ai chưa đắc đạo quả trong giáo pháp của Như Lai thì nguyện
cho đắc đạo quả trong thời kỳ của 10 vị Phật tổ sau này sẽ được y như nguyện
không sai vậy.
(Theo Chú giải, như ai tạo được phước lành là bố thí, trì giới,
thì nên nguyện như vầy: Idam Vatta Me Punnam Àsavakkhayo Vaham Hotu Àgàgate; nghĩa:
do sự phước báu mà tôi đã làm đây xin kết được duyên để diệt tận các pháp trầm
luân trong ngày vị lai. Khi đã nguyện như thế thì thế nào cũng gặp được 1 Đức
Phật trong ngày vị lai chẳng sai vậy.)
Này
Xá Lợi Phất, chư Bồ-tát đã được thọ ký 10 vị còn 500 vị nữa pháp Ba-la-mật chưa
tròn đủ nên chưa có Đức Phật nào thọ ký cho.
(Chánh Giác Tông)
No comments:
Post a Comment