Có công việc ở Núi Dinh, và không định trước, chúng tôi có mặt tại Viên Không.
Một khuôn viên chùa trên núi, thoáng đãng thâm nghiêm. Phía bên trái tôi thấy có hai chiếc xe hơi. Có lẽ có khách đến viếng chùa. Chúng tôi đi về phía bên phải, đó là hướng về chánh điện. Bốn người, chỉ có tôi là lần đầu đến đây, anh Trường, chị Vân và Hiếu thì quen thuộc nơi đây từ lâu. Tôi nghe họ nói với nhau, lần này đến thấy khác trước.
Đang theo chân anh Trường và chị Vân, tôi nghe từ dãy nhà phía bên trái vang lên âm thanh trầm hùng “Buddham saranam gacchami, Dhammam saranam gacchami…”, tôi nửa muốn đi về phía đó, nửa sợ lạc lối, nên đành theo anh chị vào chánh điện. Chánh điện sạch bong, trang trí đơn giản, thơm ngát mùi hoa Lys, bên ngoài thì những giò lan đang độ tươi thắm nhất.
Lạy Phật xong chúng tôi lần ra phía sau theo một lối đi nhỏ. Đó là đường lên cốc của ngài Hộ Pháp. Anh Trường chị Vân và Hiếu đi trước, tôi theo sau và tò mò quan sát. Có tiếng chó sủa vang, đó là giọng gầm vang của một loại chó lớn, đầy đe dọa. Leo lên một đoạn, tôi thấy hai em chó, trong đó có một em bergie, ắt là em này đã gây ồn ào, và tôi cũng rất áy náy, vì dù sao chúng tôi cũng đã làm kinh động ngài rồi.
Sư TK khi giảng thường hay nói câu này: “Nếu quí vị không tin tôi, thì cứ lên núi Dinh hỏi ngài Hộ Pháp”. Cứ mỗi lần nghe như vậy, tôi cứ thầm ước ao có lần gặp ngài. Và tất nhiên tôi không bao giờ nghĩ mình có ngày lên núi Dinh, và nhất là cách đây mấy hôm, tôi bị chấn thương vùng lưng khá nặng.
Mọi người nói rằng gặp ngài không dễ dàng vì lâu nay ngài không tiếp khách, nếu ai có duyên thì gặp được ngài một xíu rồi thôi. Biết vậy nhưng cuối cùng chúng tôi cũng đến tận cốc của ngài, trong một niềm hy vọng mong manh 1%. Được chiêm bái trú xứ của ngài là điều quí báu rồi, chúng tôi cũng không mong gì hơn.
Sau khi thưa với chị (có lẽ là thị giả của ngài) xin được gặp ngài, chúng tôi nghe chị nói hãy lên viếng cây bồ đề trước. (Bồ đề Phật cảnh)
Gốc bồ đề là một khoảnh sân rộng, cao ngang với tầng trên cốc của ngài. Có tượng Phật Niết bàn phía trước dưới gốc bồ đề, có tượng Phật khổ hạnh phía sau, và nhiều tượng Phật và tranh điêu khắc khác rất đẹp. Phía ngoài bên dưới cội bồ đề là hồ nước rất yên lặng, có lẽ không có cá. Nghe ai đó nói là bên dưới này có rất nhiều rắn, ở đây có treo bảng ghi không thả cá xuống hồ.
Không gian rất yên tĩnh ngoài tiếng lá la xao chỉ có tiếng thở hồng hộc vì không quen leo núi của chúng tôi. Mọi người lạy Phật, chụp hình. Khi hơi thở đã bình thường trở lại, chúng tôi trở xuống cốc của ngài. Chị thị giả kêu chúng tôi ngồi đợi, và không lâu, ngài từ trên thang gác bước xuống. Ngài đi xuống bằng cách bước lui, có lẽ vì cầu thang hơi dốc hay hơi nhỏ hẹp.
Không thể nào tả nổi sự hoan hỉ của chúng tôi lúc đó. Ngài ngồi xuống ghế cho chúng tôi đảnh lễ, và chúng tôi yên lặng nhìn ngài. Sự hoan hỉ đã làm chúng tôi không nói nên lời mất một lúc. Ngài hỏi chúng tôi đến có việc gì không,và cười khi biết là chúng tôi đến chỉ để đảnh lễ ngài.
Tôi xin được chụp ngài tấm hình, rồi chạy tới quỳ cạnh ngài và nháy mắt với Hiếu. Hiếu giơ ống kính. Thế là cả bọn rối loạn đội hình, ai cũng xin được chụp với ngài.
Khi anh Trường hỏi ngài làm thế nào rải tâm từ cho dễ nhớ, thế là ngài đứng dậy leo lên thang gác lần nữa, lấy xuống cho chúng tôi bốn tập kinh mỏng nhỏ và phát cho mỗi người một tập về đọc cách rải tâm từ cho dễ nhớ. Tôi là người nhận cuối cùng, tôi rút từ túi áo ra cây bút: Dạ Sư cho con xin chữ ký ạ. Ngài hơi bất ngờ và nói, hồi giờ Sư không có quen ký trên sách. Dạ, cho con xin thủ bút của sư thôi ạ. Thế là ngài viết. Mấy anh chị thấy vậy cũng ùa lên xin ngài viết cho. Ngài cười, có lẽ ngài thấy chúng tôi, cái đám bạc đầu mà như một lũ con nít đòi quà. Tôi xin ngài ghi cho một câu Pāḷi và ngài ghi: Sukkhite hotu dīghāyukā. Giống một kẻ trọc phú bày đặt xin chữ thư pháp, mù tịt Pāḷi mà bày đặt xin chữ, tôi xấu hổ hỏi ngài nghĩa là gì ạ. Ngài nói nghĩa là an lành, trường thọ. Tôi chỉ biết sādhu. Ngài gọi chị thị giả mang những tập sách mới in của ngài xuống, chỉ còn hai bộ. Anh Trường và chị Vân xin thỉnh.
Ngài dựng cuốn sách trước mặt cho tôi thấy cái bìa “Ngũ giới là thường giới” rồi hỏi chúng tôi. Giữ giới và phạm giới cái nào khó hơn. Tôi đáp ngay, dạ giữ giới. Ngài quay anh Trường, chị Vân và Hiếu. Chị Vân trả lời và giải thích. Ngài nói khỏi cần giải thích vì ngài đâu cần giải thích. Tôi không nhớ anh Trường và Hiếu trả lời thế nào. Ngài nói, phạm giới khó hơn chứ. Rồi ngài hỏi tôi: Nói dối với nói thật cái nào dễ. Tôi đáp ngay: Dạ nói thật dễ hơn, nói dối cực lắm. Ngài nói. Đó, thấy không. Phạm giới rất là khó. Anh nói anh phạm giới dễ hơn, vậy giết người dễ lắm hả, anh trộm cắp dễ lắm hả…
Ngài gieo trong lòng chúng tôi một sự an tâm khi nói rằng: Sanh thiên không khó, Niết bàn không khó, và đi địa ngục không dễ, chỉ cần giữ năm giới. Ngài nói năm giới đó không phải là do Phật, mà năm giới đó có từ đời xửa đời xưa, là năm giới của đời sống, là luật của cuộc đời. Vì vậy mới gọi “Ngũ giới là thường giới”, đời sống bình thường là cần phải có năm giới này. Ngài nói, nếu vợ chồng giữ năm giới thì vợ chồng hạnh phúc biết bao nhiêu, nếu bạn bè giữ năm giới, làm ăn kinh doanh chung với nhau giữ năm giới thì tốt đẹp biết bao nhiêu, xã hội mà toàn những người giữ năm giới, thì xã hội an lành biết bao nhiêu.
Cho đến khi nghe ngài nói, tôi mới thấy sự đơn giản mà vĩ đại của năm giới. Ngài nói rằng, phạm giới uống rượu là rất nặng, và mời người khác uống rượu thì tội càng nặng nữa, hãy đọc bộ sách của ngài để hiểu thêm về điều đó.
Ngài nói đọc bộ sách của ngài hãy theo trình tự, vì từng quyển có mối liên lạc với nhau theo thứ lớp. Tiếp đó ngài nói về cuốn Vi diệu pháp hiện thực trong cuộc sống. Ngài nói đã làm gọn vi diệu pháp trong cuốn này chỉ còn có hai mươi tâm. Và ngài nói rằng có thể giữ giới, tránh bất thiện bằng cách có thể giữ cái tâm không sanh lên. (Giữ như thế nào thì đọc cuốn sách này: http://vietheravada.net/.../Vidieuphaphienthuctrongcuocso...). Ngài dặn chúng tôi đọc xong hãy khuyến khích cho nhiều người khác đọc.
Và cứ thế, bằng một giọng nói chỉ lớn hơn gió thoảng một chút, chúng tôi phải yên lặng và lắng tâm mới nghe được ngài nói. Hơn một tiếng đồng hồ, cảm xúc thật rộn ràng khó tả. Những giáo lý của Phật lâu nay chúng tôi từng nghe qua hoặc đọc đâu đó một cách lơ đãng được ngài trùng tuyên sao rõ ràng dễ hiểu và sâu sắc lạ thường. Giờ đây ngồi viết lại những điều này mà nhớ, với tôi hôm qua, cái ghế nhỏ ngài đang ngồi như trở thành pháp tòa, sàn cốc nhỏ bé bốn mét vuông trở thành chánh điện thiêng liêng.
Ngài nói đã lâu ngài không tiếp khách vì rất mất thời gian. Ngài nói ngài già rồi, không còn nhiều thời gian để làm việc, tiền bạc mất đi có thể kiếm lại được, thời gian mất đi không thể tìm lại được. Ngài cũng không hiểu tại sao hôm nay ngài gặp chúng tôi. Tôi nói, có lẽ đó là do cái quả của chúng con từ kiếp trước. Ngài cười nói có lẽ vậy.
Không dám quấy rầy ngài lâu hơn, lúc chúng tôi sắp rời đi thì trời bỗng mưa. Bên ngoài lá rừng lao xao, những giọt mưa tí tách lào rào trên lá tựa như tiếng chư thiên sādhu. Ngài nói chúng tôi nán lại một chút đợi hết mưa, ngài bước lên thang gác nhưng lại nán lại cỡ mười lăm phút, ngài đứng trên bậc thang và nói với chúng tôi một đề tài khác: “Nếu các anh chị có gia đình có con cái thì nên khuyên chúng xuất gia." Và ngài nói thêm, trừ khi muốn trả thù nó mà thôi. Rồi ngài cười và hỏi: Biết vì sao là trả thù nó không? Tôi thưa: Dạ chắc vì con cái làm khổ mình quá ạ? Ngài cười nói: Không phải. Có những cha mẹ nói với con cái như thế này, mày không lập gia đình có vợ có con là tao chết không nhắm mắt. Như vậy là bắt nó phải khổ, nếu nó không khổ thì chết không nhắm mắt, như vậy không phải là trả thù nó không được thì chết không nhắm mắt là gì. Ngài cười, nụ cười hoan hỉ từ hòa đến không ngăn nổi tôi phải giơ điện thoại lên để ghi lại nụ cười đó. Chị thị giả tưởng tôi quay phim nên nhắc chừng ngài: Đang quay phim. Ngài vẫn tiếp tục hoan hỉ nói. Tôi giật mình nhớ ra, vội chuyển sang nút video record và ghi được đoạn cuối cho đến lúc bàn chân ngài khuất trên thang gác. (Phần sau sẽ không tường thuật nữa mà sẽ up video hén)
Lúc xuống núi, bất đồ quay lại, nhìn lên chúng tôi thấy ngài đứng ngoài ban công nhìn xuống chúng tôi. Chúng tôi đảnh lễ từ biệt ngài lần nữa.
Ngồi trên xe về lại Sài Gòn, tôi thấy buồn. Cuộc gặp gỡ thoáng chốc nhưng để lại trong lòng chúng tôi một sự kính thương và lưu luyến. Tôi buồn vì biết kiểu tu ba mớ của mình khó mà có cơ hội có dịp gặp Ngài trở lại đời này lẫn về sau. Trong câu chuyện, ngài có hỏi chúng tôi: Có bao giờ thấy người chết tái sanh trở lại chưa. Ngài nhìn tôi. Tôi trả lời: Dạ con chưa từng. Ngài nói ngài đã gặp hai lần, một lần ở Miến, một lần ở VN. Khi tôi hỏi thêm thì ngài nói trong đó có một lần là ông ngoại quá thương đứa cháu nên trở lại làm người để được gần đứa cháu và sau đó kể lại. Lòng tôi dấy lên một niềm hy vọng bâng quơ.
Ngài có nói, “nhớ sư thì đọc sách của sư.” Câu đó ngài không dành cho riêng chúng tôi, mà dành cho tất cả những người học Phật kính quý ngài.
No comments:
Post a Comment