‘Tự’ trong tiếng Pāḷi có hai chữ: Vihāra và Arāma. Khi nói đến hai chữ này chúng ta phải biết phân biệt.
Arāma là một cái pagoda/temple. Nhưng
Vihāra phải là một cái monastery.
Vihāra là nơi tu tập, hay tu viện, gồm
có hai cái chánh điện. Còn Arāma chỉ có 1 chánh điện mà thôi.
Vihāra chia làm hai chánh điện:
(1) Sīmā Hall, thánh điện, làm chỗ
kiết giới
(2) Sālā Pālī, giảng đường, giảng dạy
Sīmā hall dành cho tăng (Sangha).
Sālā Pālī dành cho cư sĩ (Upasika/Upasiko). Người Phật tử phải biết điều đó.
Khi người ta nói Vihāra thì trong tự
viện đó phải có hai chánh điện.
Chánh điện Sima Hall dành cho tăng,
dành để hành tăng sự (Sangha Kamma): lễ giới đàn, truyền giới, bố tát Uposatha,
phát lồ. Phật tử ít có dịp, khó được lên Sima Hall.
Trong giới luật nói rõ, ngay cả Đức
Phật và chư tăng không được phép mang dép vào trong Sīmā Hall. Do đó nơi đây bảo
mật lắm, cẩn thận lắm. Thường thường có những cục đá để báo ranh giới sima mà
Tăng chỉ định sau khi kiết giới. Khuôn viên đó trở thành Thánh địa Tam Bảo
(Tiratana bhūmi).
Ngôi chùa mà chưa Kiết giới Sima,
không có Sima Hall, thì chưa được gọi là
Tiratana bhūmi (Lãnh địa, khu vực của Tam bảo).
Sālā Pālī là nơi dành cho cư sĩ tới
tụng kinh, cúng dường, hay xin giới, ngồi thiền. Người ta gọi là nơi giảng đường,
giảng dạy, nơi tu học dành cho cư sĩ. Chư tăng cử tới giảng dạy cho người cư sĩ
ở nơi đó học về Tam học (giới, định, tuệ). Do đó, nơi gọi là Vihāra đòi hỏi cần
phải có hai điều kiện không thể thiếu được.
Quí Phật tử qua bên Thái Lan thấy dễ
dàng lắm. Giống như chùa Mahathat, chùa Mahachulalongkorn, hay Wat Arun là có
hai chánh điện. Qua thiền viện Mahasi, chỗ trên lầu, kế đằng trước nhà của ngài
Jatila đó là Sīmā Hall, mà xuống đằng
sau có cái nhà hai tầng to cao đó là Sālā Pālī. Cái nhà lát đá cẩm thạch, cửa
kiếng, vô lên lầu có một cái nữa đó là Sālā Pālī. Sīmā Hall thì khi nào có người
xuất gia thì có ông Phật tử lên dọn dẹp bật đèn bật quạt lên. Còn xuống đằng
sau có nhiều tòa nhà thật to đó là Sālā Pālī, nơi đó không kiết giới Sīmā.
Trong một ngôi chùa chỉ kiết giới một
ngôi nhà Sīmā thôi chứ không được kiết giới tùm lum. Vì đó là phạm luật. Do đó,
vô thiền viện Mahasi thấy có hai chánh điện là như vậy đó. Cái chánh điện mà ở
giữa lên lầu đó là Sīmā để cho chư tăng xài Sangha Kamma (tăng sự). Còn ngoài
ra không có phận sự, không có việc làm thì có người quản lý khóa cửa lại. Sợ những
người không hiểu không biết về Luật bước vô đó mang giày mang dép thì quả báo
khổ đến cho người đó rất là nặng.
Sīmā từ khi kiết giới xong thì phía
trên trên 16 yojana (do tuần) không có chư thiên nào đi qua được. Ở dưới từ 16
yojana trở xuống dưới không có địa ngục. Nếu có thì phải dời đi chứ không được ở
đó. Cho nên quí Phật tử phải nhớ nơi nào có Sīmā hall thì nơi đó có Thánh địa
Tam bảo (Tiratana bhūmi), nơi đó hết sức là phước báu, hết sức là oai lực.
Khi Đức Phật ngồi trong khuôn viên
Tiratana bhūmi này, Ngài ngồi ở giữa, chư tăng ngồi dọc hai hàng hai bên, thì
chư thiên bay ngang phải né dạt qua hai bên, chứ không bay xuyên ngang phía
trên được. Khi đang làm lễ tăng sự, chư thiên phải bay né sang hai bên như vậy,
chứ nếu bay ngang phía trên đầu thì Tứ đại thiên vương đánh rớt xuống sa địa ngục.
Khi có tăng sự thì phải bay né ra hai bên như vậy. Đó là Luật, không được bay trên đất của
Tiratana bhūmi khi có tăng sự (Sangha Kamma). Còn khi đóng cửa khóa lại thì bay
qua bay lại không sao.
Chỗ Tiratana bhūmi nếu là chiều dài
lớn thì người ta có đặt những cột trụ để báo cho biết nơi đó có ranh giới Sīmā.
Thường là 4 hay 6 hay 9 trụ, tùy theo
khuôn viên lớn hay nhỏ. Khi Kiết giới Sīmā thì trên mái nhà này không có mái
nhà nào cao hơn che lấp qua. Do đó những lần như vậy thì chư tăng lựa chỗ nào
khoảng trống rộng lớn không có cái gì chọt vô cái mái nhà kiết giới. Cây phải cắt
hết những tán lá phía trên, không tán lá nào nằm trong khuôn viên kiết giới Sīmā.
Cho nên, không có ai làm kiết giới Sīmā nào nằm trong chỗ của cây hết. Để khỏi
phải cưa. Nhiều khi cưa đụng phải Rukkhadevatā (Thần cây) cũng ngại.
Còn Arāma (pagoda/temple) thì là
‘chùa làng’, chùa nhỏ ở những thôn làng mà người dân đi ra đi vô, giống như cái
miểu cái đình thôi.
Trong đời Đức Phật có ba ngôi chùa
rất to lớn:
1. Jetavana Vihāra (Kỳ Viên Tự)
2. Veluvana Vihāra (Trúc Lâm Tự)
3. Pubbārama (Đông Phương Tự), đây
là khu vực do bà Visākhā làm. Bà tốn 90 triệu đồng tiền vàng do bán đấu giá cái
áo mà ngày lễ cưới bà mà người cha bỏ tiền công ra mướn người ta kết hột xoàn
trong đó. Khi người giúp việc của bà Visākhā bỏ quên cái áo trên chánh điện của
Jetavana, khi trở lại thì đại đức Ānanda đã dọn rồi, bà không dám đụng vô. Qua
ngày hôm sau bà xin Đức Phật chỉ dạy. Ngài nói lấy ra đem bán đấu giá, người
nào mua được cho người ta thỉnh mua thì không phạm tội; thứ hai là lấy cái tiền
bán đấu giá đó làm việc nên làm. Thế là bà xin cúng dường một ngôi chùa, đây là
Đông Phương Tự.
Jetavana là do trưởng giả Cấp Cô Độc cúng dường.
Veluvana là do vua Bình Sa Vương (Bimbisāra /Tần Bà Sa
La) cha của vua A-Xà-Thế cúng dường cho Ngài. Trên con đường đi tìm đạo, Đức Phật
có hứa với vua Bình Sa Vương là Ngài sẽ trở lại độ cho Vua. Sau khi đắc đạo quả
xong Ngài quay trở lại độ cho vua Bình Sa đắc được Sơ đạo, Sơ quả. Xong rồi ông
phát tâm cúng dường ngôi chùa cho Đức Phật.
Sau đó Đức Phật lại tiếp tục đi trở
về Kapilavatthu để độ hoàng thân quốc thích theo lời thỉnh cầu của Vua cha.
Ngài về đó ở lại độ cho hoàng thân quốc thích của Ngài đắc đạo quả xong Ngài ra
đi. Khi ra đi được một thời gian thì Pubbārama hình thành vì lúc đó Đức Phật trở
về làng của bà Visākhā để độ những người thân bằng quyến thuộc ở đó. Lúc đó bà
Visākhā cúng dường Đức Phật Pubbārama. Pubbārama chỉ có một chánh điện thôi.
Còn Kỳ Viên và Trúc Lâm đều có hai chánh điện cả. Mang tên là Vihara đều phải
thực hiện hai ngôi chánh điện nơi tu viện, thiền viện đó.
Sima Hall hay Sangha Kamma hay
Tiratana Bhūmi – lãnh địa của Tam bảo, thánh địa tam bảo.
Sālā Pālī dành cho Upasika những cận
sự nam, cận sự nữ tới tu Tam học tại nơi đó.
Khi quí Phật tử là người cư sĩ thì
chỉ đến Sālā Pālī mà thôi chứ không được tới Sima Hall nơi Tiratana Bhūmi (thánh
địa của Tam Bảo). Thường thường nơi đó dành cho chư tăng.
Nơi Sālā Pālī này thì quí Phật tử có
thể cúng giỗ, cầu siêu cha mẹ ông bà; cúng dường, để bát, dâng quê, cúng vật thực
cho chư tăng. Nơi đây sau khi cúng dường xong, chiều đó học Phật pháp Đức Phật
dạy, hay chư tăng tới giảng dạy.
Trên đường quí Phật tử đi các nơi ở
Thái Miến thấy ghi chữ Vihara là biết hai chánh điện, đi vô Arama là thấy có một
chánh điện. Quý Phật tử hỏi chỗ nào là Sālā Pālī thì quí Phật tử đi tới. Chỗ
nào là Sima Hall thì quý Phật tử đừng đi tới. Vô đó là đụng với chư tăng. Nhiều
khi quí Phật tử đi tới thấy người ta đang ngủ, quần áo chưa chỉnh tề, kỳ lắm.
Sima Hall -- Tiratana Bhūmi đừng tới, để không phạm luật, để không có những lỗi
lầm bất ngờ mà không ai chỉ dạy mình. Sống trên đời phải biết để phòng hộ cho
mình được an toàn. Nên nhớ chỗ Sima là chỗ cho chư tăng, chỗ Sālā là chỗ cho cư
sĩ. Vô mà thấy là Vihara là phải hỏi liền chỗ nào Sima, chỗ nào Sālā. Còn Arama
thì chỉ có một, đó là nơi kiết giới Sima đó!!!! Cho nên quí Phật tử phải cẩn thận
đó. Chỗ đó có một thôi thì vô phải tháo dép ra.
Do đó phải nhớ, Arama thì tới vô đảnh
lễ, vô kiếm Phật cũng được, nhưng mà phải tháo dép ra. Tháo dép ra là ngoài cái
hàng rào mốc của Sima; chớ không phải đem vô trong. Nhiều Phật tử còn đem vô
trong để góc tường, bỏ bọc ny-lon nữa. Bây giờ thì người ta có ghi rồi. Đều có
những trụ mốc ghi chữ ‘SĪMĀ’ hết. Một cái bia có chữ SĪMĀ, hoa văn xung quanh.
Khi kiết giới Sīmā thì không một
người quyết định được. Viện chủ đi nữa, cũng không được quyền. Phải trình với
Tăng. Tăng cử 8 người tới, theo Luật. Bắt đầu mới chỉ:
-Cái nơi này không có gò mối
-Cái nơi này không có phải nơi nguy
hiểm
-Cái nơi này là nơi an toàn.
Rồi các vị Luật sư chỉ định, rồi mới
bắt đầu kiết giới Sīmā lên. Chứ không phải một cá nhân.
Sīmā rất là quan trọng. Từ nơi đó
quý Phật tử nhìn thấy cái gì đó rất cao quý.
Bên Miến Điện, nơi ngài Kundala, cứ
mỗi một tháng hai kỳ Uposatha là phát lồ của chư tăng, lên tụ hội tụng giới bổn Pāṭimokkha. Pāṭimokkha có hai cách tụng. Nếu
như tụng vắn tắt thì tụng Pāṭimokkha những cái mātikā những cái tựa đề của phần
Pāṭimokkha, hay là tụng luôn đủ 227 giới của phần Pāṭimokkha, “Suṇātu me…, Suṇātu me…, Suṇātu me…”, (như
vầy tôi được nghe, như vầy tôi được nghe…) bắt đầu là kể lại các điều luật, từ
4 Bất cộng trụ (Pārājika), xuống 13 cái Tăng tàn (Sanghādisesa), hai cái Bất định
(aniyata) xong xuôi là Ưng phát lồ hay Ưng xả đối trị bắt đầu kể ra hết… Đọc
Matika là khi thì giờ eo hẹp, hoặc có người bịnh là phải kết thúc nhanh. Nếu điều
kiện cho phép, và có người thuộc lòng Pāṭimokkha thì người đó sẽ đọc hết nguyên
bài đủ 227 giới.
Mỗi lần Uposatha xong, sau khi chư tăng tụng kinh xong thì đảnh lễ Phật đảnh lễ ngài Kundala rồi ra về. Ngài Kundala là người ở lại. Trong chỗ Kiết giới Sima của thiền viện Mahasi, có một cái phòng. Ngài Kundala vô đây nghỉ lại một đêm, ở lại với Đức Phật. Hết sức là cao quý, hết sức là thanh tịnh. Sáng hôm sau ngài mới về phòng của ngài. Chỗ Sīmā không có restroom được, phải trong sạch mới được. Do đó, người nào muốn xin ở lại với Đức Phật thì người đó phải ‘bụng tốt’, bụng không hư mới được. Sima là nơi rất thánh, rất linh thiêng. Quý Phật tử muốn cầu nguyện xin chi cũng linh thiêng. Nhưng Phật tử không được tới Sima.
No comments:
Post a Comment