Friday, March 19, 2021

EVAṂ

(Ghi từ bài giảng Kinh Niệm Xứ by Sư Chánh Minh)

 Thưa quí vị trong quá trình chúng tôi nghiên cứu tham khảo chúng tôi thấy được sự lợi ích rất lớn đối với những hành giả sơ cơ hoặc những hành giả đã tu tập lâu năm. Một trong những bài kinh rất đặc biệt về phần pháp hành đó là bài Kinh Niệm Xứ. Kinh này được ghi nhận ở trong Trung Bộ Kinh cũng có hoặc là ghi nhận ở trong Trường Bộ Kinh cũng có. Chúng tôi thấy rằng đây là bài kinh rất lợi lạc cho tất cả chúng ta nên chúng tôi xin trích giảng bài kinh Niệm Xứ này.

 

Với bài kinh này, chúng tôi đưa ra những bản dịch:

Trước tiên là bản dịch của ngài HT Giới Nghiêm, bản này đã lâu.

Thứ hai là bản kinh của ngài HT Gandhasara, ngài này là đệ tử của ngài Mahasi ở Miến Điện. Ngài đã soạn ra bài kinh niệm xứ này và được sư Bửu Nam dịch ra tiếng Việt. Ngoài xoay quanh hai bộ ra chúng tôi cũng còn có phần Chú giải mà chúng tôi sưu tập được để làm giàu ý nghĩa cho cái bài Kinh Niệm Xứ này.

 

Trước mắt chúng tôi sẽ đọc phần duyên khởi của bài kinh niệm xứ:

Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā kurūsu viharati kammāsadhammaṃ nāma kurūnaṃ nigamo. Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi – ‘‘bhikkhavo’’ti. ‘‘Bhadante’’ti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ. Bhagavā etadavoca –

Bản dịch của HT Minh Châu như vầy:

“Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn ở xứ Kuru (Câu-lâu), Kammasadhamma (kiềm-ma sắt đàm) là đô thị của xứ Kuru. Rồi Thế Tôn gọi các tỳ kheo, các tỳ kheo vâng đáp Thế Tôn: Bạch Thế Tôn.

Đây là phần duyên khởi. Trong phần duyên khởi này chúng tôi xin nói ra một số ý như vầy:

 

1. Bài kinh này thuộc dạng vô vấn tự thuyết. (Không ai hỏi Đức Thế Tôn cả, Ngài tự thuyết lên).

 

2. Sutta.

Chữ 'sutta' mà chúng ta dịch là ‘kinh’ là cũng bị ảnh hưởng của người TQ rất lâu. Theo Pāḷi, ‘sutta’ nghĩa là một ‘sợi chỉ’. Các Sớ giải Sư giải thích rằng cũng giống như người thợ mộc khi muốn cắt, muốn cưa xẻ một miếng gỗ thì trước tiên người thợ mộc lấy mực và bằng sợi chỉ đó búng mực lên trên thanh gỗ và cưa thanh gỗ theo như ý muốn của mình. Như vậy chữ ‘sutta’ ở đây xem như là ‘mẫu mực’. Chúng ta quen với văn hóa của người TQ nên chúng ta dịch ‘sutta’ là kinh. Theo văn hóa người TQ, chữ kinh có ý nghĩa là một bộ sách đặc biệt, sách quý, sách khó kiếm. Trong kho tàng văn học của TQ, có Tứ Thư Ngũ Kinh - những bộ sách lớn Khổng Tử, hoặc Lão Tử thì có Đạo Đức Kinh, hay TrangTử đệ tử của Lão Tử thì có Nam Hoa Kinh. Như vậy Kinh là chỉ cho bộ sách đặc biệt, sách quý, sách có nhiều sự minh triết nằm trong đó. Cho nên sau này chúng ta bị ảnh hưởng, dịch sutta là kinh. Thì thôi, do cái truyền thống như vậy, chúng ta quen rồi. Nhưng chúng ta phải coi lại, chữ Sutta đây có nghĩa là cái mẫu mực – tức một sợi dây sợi chỉ làm mực để người thợ mộc cưa xẻ theo đường chỉ đó. Cũng vậy, chữ sutta ở đây mang ý nghĩa là ‘mẫu mực’ trong pháp thực hành của Đức Thế Tôn.

 

3. Sattipatthana

Bài kinh này được gọi là Satipatthana Sutta thì chúng ta đã tìm hiểu nghĩa chữ sutta rồi. Còn Satipatthana nghĩa là gì?

Chữ ‘sati’ nghĩa là ghi nhớ, ghi nhận. Chúng ta thường dịch là ‘niệm’. ‘Niệm’ nghĩa là ghi nhớ, ghi nhận.

Chữ patthana có nhiều ý nghĩa.

Patthana: nơi chốn, vị trí, khởi điểm.

Nếu phân tích từ ra thì chúng ta có chữ pa: khởi đầu; cùng khắp, đầy đủ. Thana: khởi điểm, chỗ ở, chốn.

Sattipatthana: nơi an trú của niệm, hoặc nơi an trú của sự ghi nhớ hoặc là nơi khởi điểm của sự ghi nhớ, ghi nhận.

 

Bài kinh Sattipatthana Sutta là mẫu mực của sự khởi đầu cho sự ghi nhớ, nơi để mà ghi nhớ (niệm xứ). Bài kinh này mang tới rất nhiều lợi ích cho hành giả đang tu tập hoặc hành giả chưa tu tập cũng có. Và chúng tôi gởi đến quí vị, dù chúng tôi cũng có thực tập theo pháp môn niệm xứ của Đức Thế Tôn dạy, cũng thấy có những sự an lạc, sự ghi nhớ cũng tăng tưởng, nhưng quý vị lưu ý một điều là chúng tôi không phải là một thiền sư. Chúng tôi chỉ truyền đạt cho quí vị những sự sưu tập về kinh điển, về Sớ giải của các vị cổ đức, liên hệ với cuốn sách Thanh Tịnh Đạo của ngài Buddhaghosa. Quí vị đừng nhầm lẫn tôi là thiền sư, không phải, tôi chỉ là người truyền đạt pháp học đến cho quí vị và từ đó quí vị tự mình thực hành theo lời dạy của Đức Phật trong bài Kinh Niệm Xứ này.

 

Trước hết chúng ta có những từ như sau:

Evaṃ me sutaṃ (như vầy tôi nghe)

 

4. Evaṃ: ‘như vầy’

Đây là một trạng từ và nghĩa của nó là ‘như vầy’, như thế ấy. Từ Evaṃ này, theo bản Sớ giải của ngài Buddhaghosa, được dùng trong bản kinh Điềm Lành (Mangalasutta) chẳng hạn, ngài Buddhaghosa giải thích chữ evaṃ này có 8 ý nghĩa:

 

4.1. Evaṃ được dùng như một lời so sánh.

Ví dụ như trong kệ ngôn Pháp Cú chúng ta thấy rằng Đức Phật tán thán công hạnh của bà Visakha sau khi nghe giáo pháp của Đức Thế Tôn xong bà lại thực hiện những công việc tốt, chẳng hạn như vậy, và làm ra những điều thiện lành

 

evaṃ jātena maccena,

kattabbaṃ kusalaṃ bahu''nti

HT Minh Châu dịch:

Như thân người đang sống

tạo ra nhiều nghiệp thiện

 

Ở đây evaṃ được dùng như một sự so sánh. “Evaṃ jātena maccena, kattabbaṃ kusalaṃ bahu''nti” tức là như thân người đang sống tạo ra nhiều việc thiện. Đây là câu Pháp cú thứ 53 Trong Kinh Pháp Cú.

 

Hoặc câu PC 52 cũng có chữ evaṃ

52. Yathā pi ruciraṃ pupphaṃ

vaṇṇa-vantaṃ sagandhakaṃ

Evaṃ subhā-sitā vācā

saphalā hoti pakubbato.

HT MinH Châu dịch là:

“Như bông hoa tươi đẹp,

có sắc lại thêm hương,

cũng vậy lời khéo nói,

có làm có kết quả”

 

Đây là nói về sự học pháp của bà hoàng hậu Mallikā.

Có câu chuyện trong Sớ giải Kinh Pháp Cú như vầy, vua Ba Tư Nặc quí trọng Đức Thế Tôn và hoàng hậu Mallikā cũng giống như bà hoàng hậu Vāsabhakkhattiyā, hai bà này muốn học pháp cho nên thỉnh cầu Đức Thế Tôn đến dạy pháp. Đức Thế Tôn nói với vua Ba Tư Nặc rằng Như Lai rất nhiều công việc phải làm, không thể đi đến một nơi thường xuyên được. Vua Ba Tư Nặc nói: Bạch Thế Tôn, vậy Đức Thế Tôn hãy ban cho một vị tỳ kheo đi tới để giảng dạy pháp cho hai hoàng hậu là Mallikā và Vāsabhakkhattiyā. Đức Thế Tôn dạy ngài Ananda đi tới dạy pháp. Trong quá trình học, hoàng hậu Mallikā chăm chỉ học tập, thuộc trước nhiều kinh và thực hành theo, trong khi bà hoàng Vāsabhakkhattiyā lại học hành chểnh mảng không chăm chú nên không thuộc kinh. Khi Đức Thế Tôn hỏi lại ngài Ananda, ngài Ananda trình bày. Đức Thế Tôn nói lại hai câu kệ này (Như hoa có sắc không hương / Lời khéo nói nhưng không thực hành thì không kết quả), muốn ám chỉ cho sự thực hành của bà hoàng Vāsabhakkhattiyā, bà này là con gái của vua Mahanama. Mahanama thuộc dòng hoàng tộc Thích Ca.

Bài kệ tiếp theo 52. Đức Phật khen ngợi bà Mallikā mà HT Minh Châu dịch: “Như hoa có sắc lại có thêm hương, lời khéo nói có thực hành thì có kết quả tốt.”

Như vậy ý nghĩa thứ nhất chữ Evaṃ là có ý nghĩa so sánh.

 

4.2. Evaṃ được dùng như một lời chỉ dạy.

‘evaṃ te abhikkamitabbaṃ, evaṃ te paṭikkamitabbaṃ, evaṃ te āloketabbaṃ , evaṃ te viloketabbaṃ, evaṃ te samiñjitabbaṃ, evaṃ te pasāritabbaṃ, evaṃ te saṅghāṭipattacīvaraṃ dhāretabba’nti.”

“Ngươi phải cần ra đi như vầy, ngươi phải cần trở về như vầy” . Chữ ‘evaṃ’ này nghĩa là lời dạy dỗ, lời chỉ dạy. Lời dạy của vị thầy đối với những vị tân tỳ kheo. (Kinh Tăng Chi, Pháp 4 Chi, Kinh Sóng biển). Những vị tân tỳ kheo mới xuất gia, người thầy chỉ dạy: Ngươi phải nên đi như vầy, ngươi phải trở về như vầy, ngươi phải mặc y vai trái như vầy, ngươi phải đắp y tăng già lê như vầy, ngươi phải ôm bát như vầy.” Chữ ‘evaṃ’ ở đây mang ý nghĩa lời chỉ dạy.

(Bản dịch của HT Minh Châu: "Thầy cần phải đi ra như vậy, Thầy cần phải đi về như vậy, Thầy cần phải ngó tới như vậy, Thầy cần phải ngó quanh như vậy. Thầy cần phải co tay như vậy, Thầy cần phải duỗi tay như vậy, Thầy cần phải mang y sanghati như vậy, mang bát y như vậy".)

 

4.3. Evaṃ được dùng như lời tán thán

“Taṃ kho pana bhavantaṃ gotamaṃ evaṃ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato”, tạm dịch “Tiếng đồn tốt đẹp như vầy được truyền đi về Đức Thế Tôn Gotama”. Câu này được dịch ra từ bài kinh Các Vị Ở Kesaputta, Tăng Chi, 3 Pháp. Một thời Đức Thế Tôn đi tới xứ Kesaputta, đây là xứ của người Kalama. Trong sớ giải nói những người Kalama này thuộc dòng dõi chiến sĩ, tức dòng dõi Sát đế lỵ và thị trấn Kesaputta là trú xứ của dân Kalama này. Người dân Kalama này nghe nói Đức Thế Tôn đến, họ muốn đi nghe Đức Thế Tôn nên truyền tai nhau “Tiếng đồn tốt đẹp như vầy, Đức Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác v.v..., được truyền đi về Đức Thế Tôn Gotama”

 

4.4. Evaṃ được dùng với ý nghĩa như lời thóa mạ.

“evamevaṃ panāyaṃ vasalī yasmiṃ vā tasmiṃ vā tassa muṇḍakassa samaṇassa vaṇṇaṃ bhāsati.” Trong mỗi thời mỗi dịp, kẻ hạ tiện này nói lời tán thán sa-môn trọc đầu.

Lời kinh này được ghi trong Tương Ưng Kinh, Phẩm Bà-la-môn, bài kinh 160.

Câu chuyện này như sau, một nữ Bà-la-môn tên là Dhananjàni, là vợ của Bà-la-môn thuộc dòng họ Bhàradvàja. Bà là một đệ tử tín thành nơi Tam Bảo, mỗi khi bà có cảm hứng lên bà thường tán thán Đức Thế Tôn, đảnh lễ Đức Thế Tôn ngài là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác v.v... Trong khi chồng bà là Bà-la-môn Bhàradvàja tự hào về dòng dõi của mình, không có niềm tin vào Đức Thế Tôn. Có lần Bà-la-môn Bhàradvàja mời 500 vị Bà-la-môn tới nhà để làm lễ cúng dường. Biết vợ mình mỗi khi cảm hứng lên thì tán thán Đức Thế Tôn “Con xin đảnh lễ Đức Thế Tôn, ngài là bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác” nên ông dặn vợ: Khi tôi mời 500 vị Bà-la-môn này tới, bà không nên tán thán sa-môn Gotama nữa. Bà Dhananjàni nói rằng, ông cấm thì cấm chứ tui không thể nào không tán thán Đức Thế Tôn được. Sớ giải nói bà Dhananjàni đã chứng quả Dự Lưu. Ông chồng hăm dọa, bà nói là tui đâm bà chết. Bà Dhananjàni nói dù ông có đâm tôi, đánh tôi, giết tôi, ông cứ làm, chớ tôi không có cách nào không tán thán Đức Thế Tôn được hết. Nghe vậy ông Bà-la-môn chịu thua. Nhưng khi mời 500 vị Bà-la-môn đến trai đàn, bà bưng cơm nước lên, bà giựt mình một cái là bà tán thán Đức Thế Tôn bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác. 500 Bà-la-môn kia đang ăn, nhổ bỏ thức ăn ra và nói bị làm nhục bởi Bà-la-môn Bhàradvàja nên tức giận bỏ về. Ông Bhàradvàja cũng giận, nói, ta sẽ đi tới, ta sẽ luận chiến với sa-môn Gotama. Bà Dhananjàni khuyến khích bằng cách khiêu khích: Tôi không thấy trong thế gian này một sa-môn Bà-la-môn nào có thể luận chiến mà thắng được Đức Thế Tôn. Ông muốn đi thì đi đi. Ông Bhàradvàja đến gặp Thế Tôn, sau khi chào hỏi xong, ông ngổi xuống hỏi pháp: Thưa sa-môn Gotama, sát vật gì được lạc, sát vật gì không sầu… Ông hỏi rất nhiều. Đức Thế Tôn vẫn dạy, này Bà-la-môn, ai sát phẫn nộ thì được lạc, ai sát phẫn nộ thì không sầu. Quí vị có thể xem trong Tương Ưng Kinh tập 1, bài 160.

Nghe xong bài giảng của Đức Phật, ông Bà-la-môn Bhàradvàja chứng Dự lưu và xin xuất gia, một thời gian sau ông chứng quả La-Hán.

 

4.5. Evaṃ được dùng như một lời nhận lãnh

'Evaṃ bhante ti kho te bhikkhū Bhagavato paccas- sosuṃ.”

“Thưa vâng Bạch Thế Tôn, các tỳ kheo ấy vâng đáp lời Đức Thế Tôn như vậy.”

 

Điều này chúng ta sẽ thấy trong những bài kinh, trước khi thuyết giảng pháp thoại Đức Thế Tôn hay nhắc nhở các vị tỳ kheo, “Này các tỳ kheo, hãy khéo tác ý, Như Lai sẽ giảng…” Và các chư vị tỳ kheo đáp lời Đức Thế Tôn như trên. Trường hợp này Evaṃ được dùng xem một lời nhận lãnh. “Thưa vâng Bạch Thế Tôn, các tỳ kheo vâng đáp Đức Thế Tôn như vậy”.

Như trong bài kinh này, chúng ta cũng thấy đoạn nhân duyên phía sau cũng như vậy. Đoạn duyên khởi HT Minh Châu dịch: Đức Thế Tôn gọi các tỳ kheo, này các tỳ kheo, các tỳ kheo vâng đáp Thế Tôn, Bạch Thế Tôn.

 

4.6. Evaṃ được dùng như một lời thừa nhận

‘‘Evaṃ byā kho ahaṃ, Bhante, bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi”. “Thật sự như vậy, Bạch Thế Tôn, theo con hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng.” Câu này được ghi trong bài kinh (Mahātaṇhāsaṅkhayasutta, 38. Ðại kinh Ðoạn tận ái)

Chữ 'Evaṃ được dùng như một lời thừa nhận.

Trong bài kinh này nêu lên một sự kiện như sau: vị tỳ kheo Sati, con của người đánh cá, vị này khởi lên ác tà kiến rằng: Theo như ta nhận biết, pháp của Đức Thế Tôn có một cái thức; thức này dong ruổi từ kiếp này sang kiếp khác không bao giờ thay đổi.

Sở dĩ vị tỳ kheo này khởi lên một ác kiến như vậy bởi vì do nghe Đức Thế Tôn thuật lại những tiền nghiệp của ngài, tức câu chuyện Bổn sanh. Như vậy mới hiểu lầm, cho rằng Đức Thế Tôn xác nhận có một cái thức thường hằng bất biến di chuyển từ kiếp này sang kiếp khác như vậy.

Các vị tỳ kheo nói rằng, này hiền giả Sati, chớ xuyên tạc Đức Thế Tôn như vậy. Đức Thế Tôn không thuyết như vậy, mà Ngài dạy rằng các thức này sinh lên bởi do duyên. Tuy nhiên, những vị tỳ kheo này không làm cho vị Sati bỏ ác kiến được, nên mới trình lên Đức Thế Tôn.

Đức Thế Tôn bảo rằng, này các tỳ kheo, hãy nhân danh ta gọi tỳ kheo Sati tới. Vị Sati tới, Đức Phật hỏi, này Sati, có phải được nghe nói rằng ngươi có tà kiến như vậy hay không. Ngài Sati đáp, ‘‘Evaṃ byā kho ahaṃ, Bhante, bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi”. “Thật sự như vậy, Bạch Thế Tôn, theo con hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng như vậy.” Chữ 'Evaṃ’ ở đây được dùng như một lời thừa nhận.

 

4.7. Evaṃ được dùng như một lời thân tình

Đây là trường hợp thanh niên Subha Todeyya muốn nghe pháp.

Sau khi Đức Phật viên tịch, ngài Ananda khi trở về hương thất của Đức Thế Tôn dọn dẹp xong xuôi thì thanh niên Subha Todeyya sai một thanh niên Bà-la-môn tới thỉnh ngài Ananda tới để mà cúng dường và nghe pháp. Ngài Ananda mới nói rằng, tôi đang mệt mỏi, phải cần dùng sữa tươi, ngày mai tôi sẽ đến. Lời thỉnh cầu của thanh niên đó được dịch ra như vầy:

-Và như vậy, lành thay, nếu tôn giả Ananda có lòng từ mẫn đến trú xứ của thanh niên Subha Todeyya.

Chữ ‘Evaṃ’ ở đây mang ý nghĩa một lời thân tình. Mà ở trong tập Anagatavamsa (Vị lai sử) thì thanh niên Subha Todeyya này được ghi nhận là một vị Phật Chánh Đẳng Giác trong tương lai. Trong tập này ghi nhận 10 vị Phật Chánh Đẳng Giác trong tương lai, nhưng những tên đó chúng tôi nhớ không hết vì có những tên Bà-la-môn rất lạ. Chúng tôi có thể nhớ được một số vị, ví dụ như ngài Ajita (Āsajjī?) là vị tỳ kheo trẻ nhất, trong bài kinh Cúng Dường Phân Biệt , chính là tiền thân của Đức Phật Mettaya sau này, hoặc vua Ba Tư Nặc cũng là vị Chánh Đẳng Giác tương lai. Hoặc là con voi Nalagiri mà Devādatta thả ra để hại Đức Thế Tôn cũng thành vị Chánh Đẳng Giác tương lai; hoặc là con voi Nalagiri trong khu rừng sau khi Đức Phật từ bỏ kinh thành Kosambi do hai nhóm tỳ kheo tranh chấp nhau vì chuyện không đáng tranh chấp. Đức Phật can ngăn nhưng cả hai cố chấp cứng đầu không chịu nghe. Đức Phật bỏ vào rừng Parileyaka một mình, có con voi tới phục vụ Ngài trong ba tháng như vậy. Trong bộ Anagatavamsa có ghi con voi Parileyaka có hậu thân là vị Chánh Đẳng Giác trong tương lai.

 

Chàng thanh niên Bà-la-môn Subha Todeyya cũng trở thành một Đức Phật trong tương lai. Muốn nghe pháp của Đức Phật và ngài Ananda đi tới giảng pháp vào ngày mai. Bài kinh này được ghi nhận trong Trung Bộ Kinh (Subhasutta)

 

8. ‘Evaṃ’ được dùng như lời ghi nhớ

‘‘Samattā, bhante, samādinnā ahitāya dukkhāya saṃvattantīti. Evaṃ no ettha hotī’’ti.

“Bạch Đức Thế Tôn, được thực hiện, được chấp hành đưa đến bất hạnh đau khổ ở đây đối với chúng con là như vậy.”

 

Lời này được ghi nhận trong bài kinh Các vị ở Kesaputta (Tăng Chi Kinh, Pháp 3 Chi), Đức Phật giảng cho nhóm dân Kalama. Đức Phật giảng bài kinh đó như vầy: Tham sân si là bất thiện, vô tham vô sân vô si là thiện. Đức Phật hỏi: Này những người Kalama, nếu các ngươi chấp hành, thực hiện về tham sân si thì như vậy có đưa đến bất hạnh đau khổ hay không?

Người dân Kalama đáp rằng, Bạch Thế Tôn nếu được thực hiện, được chấp hành như vậy thì tham sân si này sẽ đưa đến bất hạnh đau khổ. Ở đây đối với chúng con là như vậy.

Như vậy chữ ‘Evaṃ’ ở đây được dùng như lời ghi nhớ. Người dân Kalama đã trả lời như vậy.

 

 

Chữ ‘Evaṃ’ trong bài kinh này (Kinh Niệm Xứ) mang ý nghĩa nào?

Xin thưa chữ ‘Evaṃ’ (như vầy) trong bài kinh này hiểu theo 3 ý nghĩa:

(1) Chấp nhận.

Ngài Ananda chấp nhận bài kinh này đã được nghe. Tức là bài kinh này đã được ngài Ananda nghe.

 

(2) Thân tình

Lời dạy của bậc Đạo sư rất là vi tế, rất là nhiều góc độ, Đức Thế Tôn là bậc thiện thuyết ở giai đoạn đầu, thiện thuyết ở giai đoạn giữa, thiện thuyết ở giai đoạn cuối. Lời văn cũng như ý nghĩa đều đầy đủ, thích hợp với khuynh hướng của từng chúng sanh, làm cho người nghe được hoan hỉ, chấp nhận đây là lời dạy của Đức Thế Tôn.

Ngài Ananda chỉ ra rằng, điều này không phải do tôi tự nói hay tự có, mà là lời do Đức Thế Tôn ban cho. Điều này không phải xảy ra chỉ có một lần đối với tôi mà là rất nhiều lần.

Hầu như lần kết tập Tam tạng thứ nhất, những bài kinh do ngài Ananda trùng tuyên có câu này: Evaṃ me sutaṃ, tôi được nghe như vầy, như vầy tôi nghe.

Chữ Evam ở đây như một sự thân tình. Do gần gũi Bậc Đạo Sư nên mới nghe được điều Bậc Đạo sư đã dạy như vậy.

 

(2) Ghi nhớ.

Ngài Ananda nêu lên khả năng ghi nhớ của mình. “Tôi đã nhớ như vậy.” Chính Đức Thế Tôn cũng tán thán về sự ghi nhớ của ngài Ananda: “Trong các vị đệ tử tỳ kheo của Như Lai, đầy đủ về sự ghi nhớ, này các tỳ kheo, tối thắng là Ananda.” (Điều này nằm trong Tăng Chi Kinh, Pháp 1 Chi. Phẩm Người Tối Thắng.)

Ngài Ananda nêu lên cụm từ ‘Evaṃ me sutaṃ’ là với ý nghĩa sách tấn, khích lệ cho các tỳ kheo nên suy ngẫm những ý nghĩa sâu thẳm, vi diệu về lời dạy của Đức Thế Tôn. Lời dạy của Đức Thế Tôn được tôi (Ananda) ghi nhớ không bị sai lệch về lời văn cũng như ý nghĩa.

Như vậy trong chữ Evaṃ trong bài kinh này có ba ý nghĩa: (1) Chấp nhận lời dạy của Đức Thế Tôn, bậc đã giác ngộ; (2) Thân tình gần gũi thân cận mới được nghe điều này; (3) Ngài Ananda cho biết khả năng ghi nhớ của ngài.

 

Khi đọc một bài kinh, đọc “Evaṃ me sutaṃ” mà chúng ta hiểu được ý nghĩa này thì mình sẽ có cảm giác là mình đang gần gũi Đức Thế Tôn, và mình phải nỗ lực làm sao để mình ghi nhớ được bài kinh đó, những ý nghĩa thâm sâu vi diệu trong đó. Cho nên, chỗ này ngài đưa ra cụm từ đó để sách tấn cho mình suy ngẫm những ý nghĩa đó trong lời dạy của Đức Thế Tôn.



No comments:

Post a Comment

Sống khôn thác thiêng

“Những gia đình nào mà có con cái hiếu thảo thì những gia đình đó được coi là gia đình [có] Phạm thiên”. Đó là câu trong bài kinh "Ngan...