Friday, March 19, 2021

EVAṂ

(Ghi từ bài giảng Kinh Niệm Xứ by Sư Chánh Minh)

 Thưa quí vị trong quá trình chúng tôi nghiên cứu tham khảo chúng tôi thấy được sự lợi ích rất lớn đối với những hành giả sơ cơ hoặc những hành giả đã tu tập lâu năm. Một trong những bài kinh rất đặc biệt về phần pháp hành đó là bài Kinh Niệm Xứ. Kinh này được ghi nhận ở trong Trung Bộ Kinh cũng có hoặc là ghi nhận ở trong Trường Bộ Kinh cũng có. Chúng tôi thấy rằng đây là bài kinh rất lợi lạc cho tất cả chúng ta nên chúng tôi xin trích giảng bài kinh Niệm Xứ này.

 

Với bài kinh này, chúng tôi đưa ra những bản dịch:

Trước tiên là bản dịch của ngài HT Giới Nghiêm, bản này đã lâu.

Thứ hai là bản kinh của ngài HT Gandhasara, ngài này là đệ tử của ngài Mahasi ở Miến Điện. Ngài đã soạn ra bài kinh niệm xứ này và được sư Bửu Nam dịch ra tiếng Việt. Ngoài xoay quanh hai bộ ra chúng tôi cũng còn có phần Chú giải mà chúng tôi sưu tập được để làm giàu ý nghĩa cho cái bài Kinh Niệm Xứ này.

 

Trước mắt chúng tôi sẽ đọc phần duyên khởi của bài kinh niệm xứ:

Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā kurūsu viharati kammāsadhammaṃ nāma kurūnaṃ nigamo. Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi – ‘‘bhikkhavo’’ti. ‘‘Bhadante’’ti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ. Bhagavā etadavoca –

Bản dịch của HT Minh Châu như vầy:

“Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn ở xứ Kuru (Câu-lâu), Kammasadhamma (kiềm-ma sắt đàm) là đô thị của xứ Kuru. Rồi Thế Tôn gọi các tỳ kheo, các tỳ kheo vâng đáp Thế Tôn: Bạch Thế Tôn.

Đây là phần duyên khởi. Trong phần duyên khởi này chúng tôi xin nói ra một số ý như vầy:

 

1. Bài kinh này thuộc dạng vô vấn tự thuyết. (Không ai hỏi Đức Thế Tôn cả, Ngài tự thuyết lên).

 

2. Sutta.

Chữ 'sutta' mà chúng ta dịch là ‘kinh’ là cũng bị ảnh hưởng của người TQ rất lâu. Theo Pāḷi, ‘sutta’ nghĩa là một ‘sợi chỉ’. Các Sớ giải Sư giải thích rằng cũng giống như người thợ mộc khi muốn cắt, muốn cưa xẻ một miếng gỗ thì trước tiên người thợ mộc lấy mực và bằng sợi chỉ đó búng mực lên trên thanh gỗ và cưa thanh gỗ theo như ý muốn của mình. Như vậy chữ ‘sutta’ ở đây xem như là ‘mẫu mực’. Chúng ta quen với văn hóa của người TQ nên chúng ta dịch ‘sutta’ là kinh. Theo văn hóa người TQ, chữ kinh có ý nghĩa là một bộ sách đặc biệt, sách quý, sách khó kiếm. Trong kho tàng văn học của TQ, có Tứ Thư Ngũ Kinh - những bộ sách lớn Khổng Tử, hoặc Lão Tử thì có Đạo Đức Kinh, hay TrangTử đệ tử của Lão Tử thì có Nam Hoa Kinh. Như vậy Kinh là chỉ cho bộ sách đặc biệt, sách quý, sách có nhiều sự minh triết nằm trong đó. Cho nên sau này chúng ta bị ảnh hưởng, dịch sutta là kinh. Thì thôi, do cái truyền thống như vậy, chúng ta quen rồi. Nhưng chúng ta phải coi lại, chữ Sutta đây có nghĩa là cái mẫu mực – tức một sợi dây sợi chỉ làm mực để người thợ mộc cưa xẻ theo đường chỉ đó. Cũng vậy, chữ sutta ở đây mang ý nghĩa là ‘mẫu mực’ trong pháp thực hành của Đức Thế Tôn.

 

3. Sattipatthana

Bài kinh này được gọi là Satipatthana Sutta thì chúng ta đã tìm hiểu nghĩa chữ sutta rồi. Còn Satipatthana nghĩa là gì?

Chữ ‘sati’ nghĩa là ghi nhớ, ghi nhận. Chúng ta thường dịch là ‘niệm’. ‘Niệm’ nghĩa là ghi nhớ, ghi nhận.

Chữ patthana có nhiều ý nghĩa.

Patthana: nơi chốn, vị trí, khởi điểm.

Nếu phân tích từ ra thì chúng ta có chữ pa: khởi đầu; cùng khắp, đầy đủ. Thana: khởi điểm, chỗ ở, chốn.

Sattipatthana: nơi an trú của niệm, hoặc nơi an trú của sự ghi nhớ hoặc là nơi khởi điểm của sự ghi nhớ, ghi nhận.

 

Bài kinh Sattipatthana Sutta là mẫu mực của sự khởi đầu cho sự ghi nhớ, nơi để mà ghi nhớ (niệm xứ). Bài kinh này mang tới rất nhiều lợi ích cho hành giả đang tu tập hoặc hành giả chưa tu tập cũng có. Và chúng tôi gởi đến quí vị, dù chúng tôi cũng có thực tập theo pháp môn niệm xứ của Đức Thế Tôn dạy, cũng thấy có những sự an lạc, sự ghi nhớ cũng tăng tưởng, nhưng quý vị lưu ý một điều là chúng tôi không phải là một thiền sư. Chúng tôi chỉ truyền đạt cho quí vị những sự sưu tập về kinh điển, về Sớ giải của các vị cổ đức, liên hệ với cuốn sách Thanh Tịnh Đạo của ngài Buddhaghosa. Quí vị đừng nhầm lẫn tôi là thiền sư, không phải, tôi chỉ là người truyền đạt pháp học đến cho quí vị và từ đó quí vị tự mình thực hành theo lời dạy của Đức Phật trong bài Kinh Niệm Xứ này.

 

Trước hết chúng ta có những từ như sau:

Evaṃ me sutaṃ (như vầy tôi nghe)

 

4. Evaṃ: ‘như vầy’

Đây là một trạng từ và nghĩa của nó là ‘như vầy’, như thế ấy. Từ Evaṃ này, theo bản Sớ giải của ngài Buddhaghosa, được dùng trong bản kinh Điềm Lành (Mangalasutta) chẳng hạn, ngài Buddhaghosa giải thích chữ evaṃ này có 8 ý nghĩa:

 

4.1. Evaṃ được dùng như một lời so sánh.

Ví dụ như trong kệ ngôn Pháp Cú chúng ta thấy rằng Đức Phật tán thán công hạnh của bà Visakha sau khi nghe giáo pháp của Đức Thế Tôn xong bà lại thực hiện những công việc tốt, chẳng hạn như vậy, và làm ra những điều thiện lành

 

evaṃ jātena maccena,

kattabbaṃ kusalaṃ bahu''nti

HT Minh Châu dịch:

Như thân người đang sống

tạo ra nhiều nghiệp thiện

 

Ở đây evaṃ được dùng như một sự so sánh. “Evaṃ jātena maccena, kattabbaṃ kusalaṃ bahu''nti” tức là như thân người đang sống tạo ra nhiều việc thiện. Đây là câu Pháp cú thứ 53 Trong Kinh Pháp Cú.

 

Hoặc câu PC 52 cũng có chữ evaṃ

52. Yathā pi ruciraṃ pupphaṃ

vaṇṇa-vantaṃ sagandhakaṃ

Evaṃ subhā-sitā vācā

saphalā hoti pakubbato.

HT MinH Châu dịch là:

“Như bông hoa tươi đẹp,

có sắc lại thêm hương,

cũng vậy lời khéo nói,

có làm có kết quả”

 

Đây là nói về sự học pháp của bà hoàng hậu Mallikā.

Có câu chuyện trong Sớ giải Kinh Pháp Cú như vầy, vua Ba Tư Nặc quí trọng Đức Thế Tôn và hoàng hậu Mallikā cũng giống như bà hoàng hậu Vāsabhakkhattiyā, hai bà này muốn học pháp cho nên thỉnh cầu Đức Thế Tôn đến dạy pháp. Đức Thế Tôn nói với vua Ba Tư Nặc rằng Như Lai rất nhiều công việc phải làm, không thể đi đến một nơi thường xuyên được. Vua Ba Tư Nặc nói: Bạch Thế Tôn, vậy Đức Thế Tôn hãy ban cho một vị tỳ kheo đi tới để giảng dạy pháp cho hai hoàng hậu là Mallikā và Vāsabhakkhattiyā. Đức Thế Tôn dạy ngài Ananda đi tới dạy pháp. Trong quá trình học, hoàng hậu Mallikā chăm chỉ học tập, thuộc trước nhiều kinh và thực hành theo, trong khi bà hoàng Vāsabhakkhattiyā lại học hành chểnh mảng không chăm chú nên không thuộc kinh. Khi Đức Thế Tôn hỏi lại ngài Ananda, ngài Ananda trình bày. Đức Thế Tôn nói lại hai câu kệ này (Như hoa có sắc không hương / Lời khéo nói nhưng không thực hành thì không kết quả), muốn ám chỉ cho sự thực hành của bà hoàng Vāsabhakkhattiyā, bà này là con gái của vua Mahanama. Mahanama thuộc dòng hoàng tộc Thích Ca.

Bài kệ tiếp theo 52. Đức Phật khen ngợi bà Mallikā mà HT Minh Châu dịch: “Như hoa có sắc lại có thêm hương, lời khéo nói có thực hành thì có kết quả tốt.”

Như vậy ý nghĩa thứ nhất chữ Evaṃ là có ý nghĩa so sánh.

 

4.2. Evaṃ được dùng như một lời chỉ dạy.

‘evaṃ te abhikkamitabbaṃ, evaṃ te paṭikkamitabbaṃ, evaṃ te āloketabbaṃ , evaṃ te viloketabbaṃ, evaṃ te samiñjitabbaṃ, evaṃ te pasāritabbaṃ, evaṃ te saṅghāṭipattacīvaraṃ dhāretabba’nti.”

“Ngươi phải cần ra đi như vầy, ngươi phải cần trở về như vầy” . Chữ ‘evaṃ’ này nghĩa là lời dạy dỗ, lời chỉ dạy. Lời dạy của vị thầy đối với những vị tân tỳ kheo. (Kinh Tăng Chi, Pháp 4 Chi, Kinh Sóng biển). Những vị tân tỳ kheo mới xuất gia, người thầy chỉ dạy: Ngươi phải nên đi như vầy, ngươi phải trở về như vầy, ngươi phải mặc y vai trái như vầy, ngươi phải đắp y tăng già lê như vầy, ngươi phải ôm bát như vầy.” Chữ ‘evaṃ’ ở đây mang ý nghĩa lời chỉ dạy.

(Bản dịch của HT Minh Châu: "Thầy cần phải đi ra như vậy, Thầy cần phải đi về như vậy, Thầy cần phải ngó tới như vậy, Thầy cần phải ngó quanh như vậy. Thầy cần phải co tay như vậy, Thầy cần phải duỗi tay như vậy, Thầy cần phải mang y sanghati như vậy, mang bát y như vậy".)

 

4.3. Evaṃ được dùng như lời tán thán

“Taṃ kho pana bhavantaṃ gotamaṃ evaṃ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato”, tạm dịch “Tiếng đồn tốt đẹp như vầy được truyền đi về Đức Thế Tôn Gotama”. Câu này được dịch ra từ bài kinh Các Vị Ở Kesaputta, Tăng Chi, 3 Pháp. Một thời Đức Thế Tôn đi tới xứ Kesaputta, đây là xứ của người Kalama. Trong sớ giải nói những người Kalama này thuộc dòng dõi chiến sĩ, tức dòng dõi Sát đế lỵ và thị trấn Kesaputta là trú xứ của dân Kalama này. Người dân Kalama này nghe nói Đức Thế Tôn đến, họ muốn đi nghe Đức Thế Tôn nên truyền tai nhau “Tiếng đồn tốt đẹp như vầy, Đức Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác v.v..., được truyền đi về Đức Thế Tôn Gotama”

 

4.4. Evaṃ được dùng với ý nghĩa như lời thóa mạ.

“evamevaṃ panāyaṃ vasalī yasmiṃ vā tasmiṃ vā tassa muṇḍakassa samaṇassa vaṇṇaṃ bhāsati.” Trong mỗi thời mỗi dịp, kẻ hạ tiện này nói lời tán thán sa-môn trọc đầu.

Lời kinh này được ghi trong Tương Ưng Kinh, Phẩm Bà-la-môn, bài kinh 160.

Câu chuyện này như sau, một nữ Bà-la-môn tên là Dhananjàni, là vợ của Bà-la-môn thuộc dòng họ Bhàradvàja. Bà là một đệ tử tín thành nơi Tam Bảo, mỗi khi bà có cảm hứng lên bà thường tán thán Đức Thế Tôn, đảnh lễ Đức Thế Tôn ngài là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác v.v... Trong khi chồng bà là Bà-la-môn Bhàradvàja tự hào về dòng dõi của mình, không có niềm tin vào Đức Thế Tôn. Có lần Bà-la-môn Bhàradvàja mời 500 vị Bà-la-môn tới nhà để làm lễ cúng dường. Biết vợ mình mỗi khi cảm hứng lên thì tán thán Đức Thế Tôn “Con xin đảnh lễ Đức Thế Tôn, ngài là bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác” nên ông dặn vợ: Khi tôi mời 500 vị Bà-la-môn này tới, bà không nên tán thán sa-môn Gotama nữa. Bà Dhananjàni nói rằng, ông cấm thì cấm chứ tui không thể nào không tán thán Đức Thế Tôn được. Sớ giải nói bà Dhananjàni đã chứng quả Dự Lưu. Ông chồng hăm dọa, bà nói là tui đâm bà chết. Bà Dhananjàni nói dù ông có đâm tôi, đánh tôi, giết tôi, ông cứ làm, chớ tôi không có cách nào không tán thán Đức Thế Tôn được hết. Nghe vậy ông Bà-la-môn chịu thua. Nhưng khi mời 500 vị Bà-la-môn đến trai đàn, bà bưng cơm nước lên, bà giựt mình một cái là bà tán thán Đức Thế Tôn bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác. 500 Bà-la-môn kia đang ăn, nhổ bỏ thức ăn ra và nói bị làm nhục bởi Bà-la-môn Bhàradvàja nên tức giận bỏ về. Ông Bhàradvàja cũng giận, nói, ta sẽ đi tới, ta sẽ luận chiến với sa-môn Gotama. Bà Dhananjàni khuyến khích bằng cách khiêu khích: Tôi không thấy trong thế gian này một sa-môn Bà-la-môn nào có thể luận chiến mà thắng được Đức Thế Tôn. Ông muốn đi thì đi đi. Ông Bhàradvàja đến gặp Thế Tôn, sau khi chào hỏi xong, ông ngổi xuống hỏi pháp: Thưa sa-môn Gotama, sát vật gì được lạc, sát vật gì không sầu… Ông hỏi rất nhiều. Đức Thế Tôn vẫn dạy, này Bà-la-môn, ai sát phẫn nộ thì được lạc, ai sát phẫn nộ thì không sầu. Quí vị có thể xem trong Tương Ưng Kinh tập 1, bài 160.

Nghe xong bài giảng của Đức Phật, ông Bà-la-môn Bhàradvàja chứng Dự lưu và xin xuất gia, một thời gian sau ông chứng quả La-Hán.

 

4.5. Evaṃ được dùng như một lời nhận lãnh

'Evaṃ bhante ti kho te bhikkhū Bhagavato paccas- sosuṃ.”

“Thưa vâng Bạch Thế Tôn, các tỳ kheo ấy vâng đáp lời Đức Thế Tôn như vậy.”

 

Điều này chúng ta sẽ thấy trong những bài kinh, trước khi thuyết giảng pháp thoại Đức Thế Tôn hay nhắc nhở các vị tỳ kheo, “Này các tỳ kheo, hãy khéo tác ý, Như Lai sẽ giảng…” Và các chư vị tỳ kheo đáp lời Đức Thế Tôn như trên. Trường hợp này Evaṃ được dùng xem một lời nhận lãnh. “Thưa vâng Bạch Thế Tôn, các tỳ kheo vâng đáp Đức Thế Tôn như vậy”.

Như trong bài kinh này, chúng ta cũng thấy đoạn nhân duyên phía sau cũng như vậy. Đoạn duyên khởi HT Minh Châu dịch: Đức Thế Tôn gọi các tỳ kheo, này các tỳ kheo, các tỳ kheo vâng đáp Thế Tôn, Bạch Thế Tôn.

 

4.6. Evaṃ được dùng như một lời thừa nhận

‘‘Evaṃ byā kho ahaṃ, Bhante, bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi”. “Thật sự như vậy, Bạch Thế Tôn, theo con hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng.” Câu này được ghi trong bài kinh (Mahātaṇhāsaṅkhayasutta, 38. Ðại kinh Ðoạn tận ái)

Chữ 'Evaṃ được dùng như một lời thừa nhận.

Trong bài kinh này nêu lên một sự kiện như sau: vị tỳ kheo Sati, con của người đánh cá, vị này khởi lên ác tà kiến rằng: Theo như ta nhận biết, pháp của Đức Thế Tôn có một cái thức; thức này dong ruổi từ kiếp này sang kiếp khác không bao giờ thay đổi.

Sở dĩ vị tỳ kheo này khởi lên một ác kiến như vậy bởi vì do nghe Đức Thế Tôn thuật lại những tiền nghiệp của ngài, tức câu chuyện Bổn sanh. Như vậy mới hiểu lầm, cho rằng Đức Thế Tôn xác nhận có một cái thức thường hằng bất biến di chuyển từ kiếp này sang kiếp khác như vậy.

Các vị tỳ kheo nói rằng, này hiền giả Sati, chớ xuyên tạc Đức Thế Tôn như vậy. Đức Thế Tôn không thuyết như vậy, mà Ngài dạy rằng các thức này sinh lên bởi do duyên. Tuy nhiên, những vị tỳ kheo này không làm cho vị Sati bỏ ác kiến được, nên mới trình lên Đức Thế Tôn.

Đức Thế Tôn bảo rằng, này các tỳ kheo, hãy nhân danh ta gọi tỳ kheo Sati tới. Vị Sati tới, Đức Phật hỏi, này Sati, có phải được nghe nói rằng ngươi có tà kiến như vậy hay không. Ngài Sati đáp, ‘‘Evaṃ byā kho ahaṃ, Bhante, bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi”. “Thật sự như vậy, Bạch Thế Tôn, theo con hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng như vậy.” Chữ 'Evaṃ’ ở đây được dùng như một lời thừa nhận.

 

4.7. Evaṃ được dùng như một lời thân tình

Đây là trường hợp thanh niên Subha Todeyya muốn nghe pháp.

Sau khi Đức Phật viên tịch, ngài Ananda khi trở về hương thất của Đức Thế Tôn dọn dẹp xong xuôi thì thanh niên Subha Todeyya sai một thanh niên Bà-la-môn tới thỉnh ngài Ananda tới để mà cúng dường và nghe pháp. Ngài Ananda mới nói rằng, tôi đang mệt mỏi, phải cần dùng sữa tươi, ngày mai tôi sẽ đến. Lời thỉnh cầu của thanh niên đó được dịch ra như vầy:

-Và như vậy, lành thay, nếu tôn giả Ananda có lòng từ mẫn đến trú xứ của thanh niên Subha Todeyya.

Chữ ‘Evaṃ’ ở đây mang ý nghĩa một lời thân tình. Mà ở trong tập Anagatavamsa (Vị lai sử) thì thanh niên Subha Todeyya này được ghi nhận là một vị Phật Chánh Đẳng Giác trong tương lai. Trong tập này ghi nhận 10 vị Phật Chánh Đẳng Giác trong tương lai, nhưng những tên đó chúng tôi nhớ không hết vì có những tên Bà-la-môn rất lạ. Chúng tôi có thể nhớ được một số vị, ví dụ như ngài Ajita (Āsajjī?) là vị tỳ kheo trẻ nhất, trong bài kinh Cúng Dường Phân Biệt , chính là tiền thân của Đức Phật Mettaya sau này, hoặc vua Ba Tư Nặc cũng là vị Chánh Đẳng Giác tương lai. Hoặc là con voi Nalagiri mà Devādatta thả ra để hại Đức Thế Tôn cũng thành vị Chánh Đẳng Giác tương lai; hoặc là con voi Nalagiri trong khu rừng sau khi Đức Phật từ bỏ kinh thành Kosambi do hai nhóm tỳ kheo tranh chấp nhau vì chuyện không đáng tranh chấp. Đức Phật can ngăn nhưng cả hai cố chấp cứng đầu không chịu nghe. Đức Phật bỏ vào rừng Parileyaka một mình, có con voi tới phục vụ Ngài trong ba tháng như vậy. Trong bộ Anagatavamsa có ghi con voi Parileyaka có hậu thân là vị Chánh Đẳng Giác trong tương lai.

 

Chàng thanh niên Bà-la-môn Subha Todeyya cũng trở thành một Đức Phật trong tương lai. Muốn nghe pháp của Đức Phật và ngài Ananda đi tới giảng pháp vào ngày mai. Bài kinh này được ghi nhận trong Trung Bộ Kinh (Subhasutta)

 

8. ‘Evaṃ’ được dùng như lời ghi nhớ

‘‘Samattā, bhante, samādinnā ahitāya dukkhāya saṃvattantīti. Evaṃ no ettha hotī’’ti.

“Bạch Đức Thế Tôn, được thực hiện, được chấp hành đưa đến bất hạnh đau khổ ở đây đối với chúng con là như vậy.”

 

Lời này được ghi nhận trong bài kinh Các vị ở Kesaputta (Tăng Chi Kinh, Pháp 3 Chi), Đức Phật giảng cho nhóm dân Kalama. Đức Phật giảng bài kinh đó như vầy: Tham sân si là bất thiện, vô tham vô sân vô si là thiện. Đức Phật hỏi: Này những người Kalama, nếu các ngươi chấp hành, thực hiện về tham sân si thì như vậy có đưa đến bất hạnh đau khổ hay không?

Người dân Kalama đáp rằng, Bạch Thế Tôn nếu được thực hiện, được chấp hành như vậy thì tham sân si này sẽ đưa đến bất hạnh đau khổ. Ở đây đối với chúng con là như vậy.

Như vậy chữ ‘Evaṃ’ ở đây được dùng như lời ghi nhớ. Người dân Kalama đã trả lời như vậy.

 

 

Chữ ‘Evaṃ’ trong bài kinh này (Kinh Niệm Xứ) mang ý nghĩa nào?

Xin thưa chữ ‘Evaṃ’ (như vầy) trong bài kinh này hiểu theo 3 ý nghĩa:

(1) Chấp nhận.

Ngài Ananda chấp nhận bài kinh này đã được nghe. Tức là bài kinh này đã được ngài Ananda nghe.

 

(2) Thân tình

Lời dạy của bậc Đạo sư rất là vi tế, rất là nhiều góc độ, Đức Thế Tôn là bậc thiện thuyết ở giai đoạn đầu, thiện thuyết ở giai đoạn giữa, thiện thuyết ở giai đoạn cuối. Lời văn cũng như ý nghĩa đều đầy đủ, thích hợp với khuynh hướng của từng chúng sanh, làm cho người nghe được hoan hỉ, chấp nhận đây là lời dạy của Đức Thế Tôn.

Ngài Ananda chỉ ra rằng, điều này không phải do tôi tự nói hay tự có, mà là lời do Đức Thế Tôn ban cho. Điều này không phải xảy ra chỉ có một lần đối với tôi mà là rất nhiều lần.

Hầu như lần kết tập Tam tạng thứ nhất, những bài kinh do ngài Ananda trùng tuyên có câu này: Evaṃ me sutaṃ, tôi được nghe như vầy, như vầy tôi nghe.

Chữ Evam ở đây như một sự thân tình. Do gần gũi Bậc Đạo Sư nên mới nghe được điều Bậc Đạo sư đã dạy như vậy.

 

(2) Ghi nhớ.

Ngài Ananda nêu lên khả năng ghi nhớ của mình. “Tôi đã nhớ như vậy.” Chính Đức Thế Tôn cũng tán thán về sự ghi nhớ của ngài Ananda: “Trong các vị đệ tử tỳ kheo của Như Lai, đầy đủ về sự ghi nhớ, này các tỳ kheo, tối thắng là Ananda.” (Điều này nằm trong Tăng Chi Kinh, Pháp 1 Chi. Phẩm Người Tối Thắng.)

Ngài Ananda nêu lên cụm từ ‘Evaṃ me sutaṃ’ là với ý nghĩa sách tấn, khích lệ cho các tỳ kheo nên suy ngẫm những ý nghĩa sâu thẳm, vi diệu về lời dạy của Đức Thế Tôn. Lời dạy của Đức Thế Tôn được tôi (Ananda) ghi nhớ không bị sai lệch về lời văn cũng như ý nghĩa.

Như vậy trong chữ Evaṃ trong bài kinh này có ba ý nghĩa: (1) Chấp nhận lời dạy của Đức Thế Tôn, bậc đã giác ngộ; (2) Thân tình gần gũi thân cận mới được nghe điều này; (3) Ngài Ananda cho biết khả năng ghi nhớ của ngài.

 

Khi đọc một bài kinh, đọc “Evaṃ me sutaṃ” mà chúng ta hiểu được ý nghĩa này thì mình sẽ có cảm giác là mình đang gần gũi Đức Thế Tôn, và mình phải nỗ lực làm sao để mình ghi nhớ được bài kinh đó, những ý nghĩa thâm sâu vi diệu trong đó. Cho nên, chỗ này ngài đưa ra cụm từ đó để sách tấn cho mình suy ngẫm những ý nghĩa đó trong lời dạy của Đức Thế Tôn.



PHẬT VỊ LAI

Nguyên nhân Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết về 10 vị Phật tổ giáng sanh trong ngày vị lai:

Một hôm bà Gotami là dưỡng mẫu của Đức Phật, em ruột của hoàng hậu Mahà Mayà, tự tay bà quay chỉ dệt, may và nhuộm lấy 2 tấm y cà sa thật quý định đem dâng cho Đức Phật. Ngài chỉ lãnh lấy 1 lá y, còn 1 lá y ngài bèn bảo đem dâng cho chư tăng. Bà đem dâng từ vị đại đức cho tới chót không ai dám nhận vì nghĩ rằng nếu không ai dám lãnh thì bà sẽ đem dâng lại cho Đức Phật. Sau cùng có một vị tỳ khưu mới tu, tên là Āsajjī, vị này thọ lãnh tấm y và tính đem dâng lại cho Đức Phật. Các vị còn phàm có ý khi dể vì cho rằng người không đức tin và không tôn kính.

Bà Gotamì có ý buồn vì dâng cho vị mới tu, sợ mình ít phước. Đức Phật hiểu ý bèn giảng giải rằng: "Ai có lòng trong sạch dâng cúng đến chư tăng thập phương thì sẽ được nhiều phước báu hơn dâng đến Như Lai".

Khi xong lễ, vị Āsajjī bèn đem tấm y ấy vào nơi Phật ngự mà dâng cho Ngài, và nguyện thành một vị Phật tổ trong ngày vị lai. Đức Phật cười, lúc ấy 2 cái răng nhọc túa hào quang thấu đến cung trời Phạm thiên, 2 cái ở hàm trên thấu xuống tới cõi địa ngục A tỳ. Đại đức Ananda thấy vậy bèn quỳ xuống bạch Phật rằng:

-"Có điều chi lạ mà Đức Thế Tôn cười rõ rệt?"

(Vì chư Phật không bao giờ cười mà không có nguyên nhân).

Đức Phật đáp rằng:

- Này Ananda, tỳ khưu Āsajjī đây sau này sẽ thành 1 vị Chánh Đẳng Chánh Giác kế vị Như Lai tên là Di Lặc Phật (Mettayya). Đức Phật chỉ nói tóm tắt có bao nhiêu rồi vào tịnh thất nghỉ.

Lúc ấy chư tăng đang tụ hội tại giảng đường bàn bàn luận với nhau, không biết chư Phật tổ vị lai oai lực và giáo pháp như thế nào. Những lời bàn luận ấy lọt vào nhĩ thông Đức Phật, Ngài bèn ra ngự nơi giảng đường, lúc ấy đại đức Xá Lợi Phất quỳ xuống bạch Phật rằng:

-Xin ngài mở lòng từ bi giảng giải cho biết oai lực và giáo pháp của Phật vị lai.

Nhân đó mà Đức Phật mới giảng giải về 10 vị Phật vị lai.

-oOo-

Đức Phật giảng rằng: Này Xá Lợi Phất, sau khi Như Lai nhập diệt rồi thì có 5 điều tiêu hoại là:

1 - Adhigama Antaradhāna: là tiêu hoại đạo quả. Đúng 1 ngàn năm sau khi Như Lai nhập diệt thì không còn có ai đắc đạo quả A-la-hán, luôn cả lục thông và huệ phân tích thuộc nằm lòng Tam Tạng nữa.

2 - Pariyatti Antaradhāna: là tiêu hoại về pháp học, là khi đúng 2 ngàn năm không có ai thuộc nằm lòng Tam Tạng và mất lần lần. Bắt đầu mất tạng Luận, Kinh rồi mới tới Luật (vì Luật mà mất thì đạo cũng không còn, Luật là nền tảng của Phật giáo - vinayo sàsanamulam).

Thật vậy, hiện nay ít có ai chú trọng mà học cho nằm lòng tạng Luận vì khó nhớ và lý luận sâu xa lắm.

3 - Pātipatti Antaradhāna: mất pháp hành, vì khi đúng 3 ngàn năm thì ít ai mến pháp hành, vì thực hành theo là 1 điều khó.

Mà thật vậy, hiện nay Phật pháp mới qua gần 2498 năm mà rất ít nhà sư ưa mến sự hành đạo giải thoát.

4 - Linga Antaradhāna: mất tăng tướng, khi đúng 4 ngàn năm thì chư Tăng lúc bấy giờ như người thế, vì hội nhau lại bàn rằng, mặc y xùng xình khó bề làm công việc rồi đồng lòng bỏ y cà-sa, chỉ mặc quần áo như kẻ thế mà lấy một miếng vải vàng (ca-sa) cột vào cổ tay hoặc vắt trên vai, hoặc giắt mép tai cho biết người tu thôi, vì bận việc làm ruộng rẫy bán buôn như người thế tục. Trong lúc ấy có ít người tu đi hóa trai (trì bình khaất thực), chỉ lấy hai cái quảo (thúng nhỏ lớn hơn cái ô) thoa dầu chai, để lên 2 cái gióng, quảy đi khuất thực như người gánh đồ đi bán (Tam Tạng, quyển 28 trang 226).

5 - Dhātu Antaradhāna: là tiêu hoại xá lợi, hiện nay xá lợi rải rác khắp nơi cho chư Thiên và nhân loại chiêm bái, khi đúng 5 ngàn năm thì tất cả những xá lợi ấy bay về đóng thành khối, hóa thành 1 vị Phật tại Bồ Đề Đạo Tràng, Trung Ấn Độ, thuyết pháp độ chúng sanh đắc thành đạo quả vô số kể trong 7 ngày rồi lửa tự nhiên trong kim thân phát cháy tiêu Xá lợi. Kể từ ấy, giáo pháp Ngài hoàn toàn tiêu diệt.

Sau khi mãn thời kỳ Phật pháp rồi, tâm chúng sanh không phân biệt tội phước chi cả, lần lần hung dữ độc ác, tuổi thọ lại giảm lần lần xuống cho đến khi 10 tuổi hoặc ít hơn chút ít. Như hiện nay ai biết lo tu hành, đức hạnh hiền từ, thì người ta khen ngợi, trái lại lúc ấy chúng sanh ai hung dữ độc ác, bất lương thì người lại khen. Mà ác thì dễ làm hơn thiện, nên con người càng ngày càng hung dữ, nhìn nhau như các loài thú dữ muốn cắn xé ăn thịt nhau. Lúc ấy sanh lên một trận tàn sát lẫn nhau (Satthantara Kappa - Tam Tạng quyển 18, Chư Thiên, trang 148), thây chết dày đặc trên quả địa cầu. Chỉ còn lại ít người lương thiện không ưa thích sự sát hại, chạy trốn vào rừng sâu núi thẳm. Khi yên trận tàn sát ấy rồi, ra ngoài gặp ai còn sót lại, cũng đồng xin đừng sát hại lẫn nhau nữa (đã giữ được 1 giới sát sanh) nên con những người ấy tuổi thọ lên được 20 hoặc 25 tuổi. Rồi lại hứa không lấy của ai (giữ giới không trộm cắp) những người con cháu lại thêm tuổi lên đến 50 năm. Cứ thế mãi lần lần giữ cả ngũ giới là không sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói láo, uống rượu thì tuổi thọ của những con cháu sau này ngày càng càng thêm lên mãi cho đến tuổi 1 A-tăng-kỳ năm mới chết.

Sống mãi không chết cũng chán, mới có 1 hạng người nói rằng mình làm theo ông bà hoài nên không thấy ai chết hết, lại bắt đầu sát sanh nên con cháu lại hạ xuống còn nửa A-tăng-kỳ, rồi lần lần bỏ bớt giới hạnh thì tuổi lại càng hạ xuống mãi mãi cho đến khi chúng sanh tuổi còn 10 muôn năm.

Lúc ấy Đức Phật Di Lặc mới giáng sanh dạy đạo. Ngài giáng sanh tại xứ Ketu Mettī, cha tên Subrama, mẹ tên Bhramavatī, lúc ở thế có 30 muôn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia. Lúc xuất gia thì bay cả lâu đài có vô số vua, chư hầu và quan quân đồng xuất gia theo ngài hành đạo. Trong 7 ngày thì đắc quả dưới cây Mù u, tuổi thọ 8 muôn năm, bề cao ngài 44 thước. Ngài dòng Bà-la-môn, hào quang ở nơi ngực, hai bàn tay và đầu gối ngài sáng ra cả ngày và đêm thấu đến 10 thế giới sa bà. Người ta không thể phân biệt ngày đêm vì hào quang che lấp cả mặt trời và mặt trăng. Người ta chỉ thấy bông nở hoặc tàn, hoặc là nghe tiếng gà gáy mà phân biệt ngày đêm luôn luôn cho đến khi ngài nhập diệt. Ngài đã thực hành tu 10 pháp Ba-la-mật 16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp.

Này Xá Lợi Phất, Như Lai chỉ kể về 1 pháp Ba-la-mật của Ngài là: có 1 kiếp sanh làm Chuyển luân vương tên Sangha Cakka. Bồ-tát có 7 báu trị vì thiên hạ 101 nước chư hầu trên thế giới. Khi hay tin một vị sa di cho hay rằng có Đức Phật, Pháp, Tăng đã ra đời, Ngài vui mừng đến ngất người ba lần, sau lại bố thí ngôi báu, cho sa di ấy, bèn đi chân không đến nơi Phật ngự. Đi một ngày đầu lở cả hai chân, máu chảy ròng ròng đi không được nữa, qua ngày sau ngài bò bằng hai tay và hai đầu gối, được 1 ngày cũng chảy máu cả. Qua ngày sau ngài bò không được bèn trườn đi bằng ngực, lát ngực máu chảy ròng ròng, không thể trườn được nữa, nhưng chưa gặp Đức Phật, chỉ mới nửa đường.

Lúc ấy Đức Phật Sirimatti biết được bèn hóa ra người đánh xe chạy tới bảo tránh, Bồ-tát nói tôi không thể nào tránh được vì mình mẩy lở hết. Đức Phật bèn hỏi người đi đâu. Bồ-tát nói tôi muốn đi gặp Phật. Đức Phật nói: thôi để tôi đưa dùm cho. Rồi ngài xuống xe bồng Bồ-tát để lên xe giả. Đánh xe 1 chút thì nói đây tới cửa chùa, mời ông xuống. Lúc ấy có vị trời Đế Thích biết được bèn mang 1 gói cơm và 1 bầu nước tới cho, phần thì bịnh và đói nên lãnh cơm nước. Khi thọ thực xong thì tất cả vết thương đều lành lại hết và khỏe mạnh lại như thường. Bèn vào yết kiến Phật nhằm lúc đang thuyết pháp người ta hằng vạn vạn, nhưng êm như tờ.

Bồ-tát vào đảnh lễ xong xin Đức Phật thuyết pháp cho nghe, khi nghe được một câu kệ lại bạch Phật xin ngừng để ngài bố thí pháp. Ngài bèn lấy móng tay nguyện bén như gươm rồi cắt lấy đầu mình để trên hai bàn tay mà cúng dường cho Pháp bảo, sau khi Phật thuyết xong thì ngã xuống chân Ngài mà chết.

Này Xá lợi phất, vì Bồ-tát không kể đến thân mình bò trườn đến lở hết, nên khi thành chánh quả có hào quang túa ra nơi ngực, hai bàn tay và hai đầu gối luôn luôn thấu đến 10 ngàn thế giới và không tiếc mạng sống, dám bố thí cho pháp bảo nên khi thành chánh quả tuổi thọ đến 8 muôn năm.

Sau khi Đức Phật Di Lạc nhập diệt rồi thì tuổi thọ chúng sanh càng ngày càng giảm xuống cho tới khi tuổi chỉ còn 10 năm là già rồi. Lần lần không còn chúng sanh nào sanh lên quả địa cầu cả. Trước khi 100.000 năm tới Kiếp Hoại thì chư thiên bay trên không trung kêu la báo tin cho biết còn mấy năm nữa thì sẽ tiêu hoại quả địa cầu. Khi ấy chúng sanh sợ sệt chán nản, ai ai cũng ráng lo tu hành lần lần sanh về cõi trời dục giới. Chư thiên ở cõi trời nầy cũng hãi hùng kinh khủng quả địa cầu cháy thì cũng cháy luôn cả 6 tầng trời dục giới và 2 cõi trời sắc giới là: Pārisajjā và Porohitta nữa, nên kinh sợ rồi ráng tham thiền cho đắc các cõi thiền bậc trên, cho đến khi sanh về hết trên cõi trời sắc giới. Khi quả địa cầu không còn ai ở nữa thì mặt trời lần lần mọc lên 2 mặt trời, 1 thời gian thật lâu, lại mọc lên 3, 4, 5, 6, 7 mặt trời. Lúc bấy giờ nước biển khô khan không còn 1 giọt. Chừng ấy, lửa phát lên cháy cả quả địa cầu rồi tiêu hoại và cháy luôn cả 6 cung trời dục giới và 2 cõi trời sắc giới tầng dưới chót. Kể từ đó chỉ còn khí hư u minh cho đến khi cấu tạo quả địa cầu mới khác. Từ đó 1 thời gian là A-tăng-kỳ kiếp không có vị Phật tổ nào ra đời dạy đạo cả.

-oOo-

Kế sau đó có quả địa cầu có 2 vị Phật tổ giáng sanh là: Rāmadeva và Dhammarājāmuni.

Vị thứ nhất tên Rāmadeva khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, thành đạo dưới gốc cây thị, tuổi thọ 9 muôn năm, bề cao ngài 40 thước, hào quang túa ra sáng khắp cả thế giới luôn luôn ngày đêm chớp nháng tới lui trên hư không chẳng ngừng nghỉ. Do nhờ pháp Bà-la-môn có cây Như ý thọ (Kālabriksa) mọc lên rất nhiều để cho chúng sanh cần dùng. Cây như ý thọ này có mãnh lực phi thường là bất cứ ai muốn điều chi như y phục, vật thực, đồ trang điểm... lại tới cây ấy ước thì sẽ được theo như ý muốn. Đây là nhờ pháp nguyện lực Ba-la-mật của Đức Phật. Cho nên, chúng sanh lúc ấy khỏi cực nhọc nên ai ai cũng đều tu hành, vì chúng sanh nào sanh ra kịp Phật thì Ngài độ tận chúng sanh, ít lắm cũng được sanh về cõi trời hết thảy.

Nói về 1 pháp Ba-la-mật của ngài: có 1 kiếp sanh ra tên là Nārada gặp Đức Phật Kassapa (Ca diếp) ra đời, vào nghe pháp thấy hào quang trong mình Đức Phật phóng ra sáng ngời rực rỡ bèn phát tâm trong sạch bố thí mạng sống mình, cúng dường cho Phật và nguyện cho thành 1 vị chánh giác có nhiều hào quang như ngài. Nguyện xong liền lấy miếng vải nhúng dầu quấn vào mình đốt lên cúng dường cho Đức Phật. Khi lửa cháy lên thì mùi bay lên thơm bát ngát. Khi cháy xong chỗ ấy mọc lên 1 bông sen bằng ngọc, mọi người đều cho là ông Nārada sẽ thành một vị Phật tổ như ý nguyện.

 

Kế sau đó, Đức Phật Dhammarājā-Muni (chính là đức vua Ba Tư Nặc, Pasenadi Kosala) khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, đắc đạo dưới cây Dừng, tuổi thọ 5 muôn năm, bề cao ngài 8 thước. Khi ngài đi đâu mỗi bước đều có bông sen bằng bánh xe mọc lên đỡ bàn chân ngài, khi ngồi thì có bông sen bằng 7 thứ ngọc mọc lên làm bảo tọa cho ngài ngồi. Do nhờ pháp Ba-la-mật của Đức Phật mà có cây Như ý thọ mọc lên rất nhiều để cho bá tánh cần dùng có đủ thực phẩm và đồ trang sức.

Nói về 1 pháp Ba-la-mật: có 1 kiếp ngài sanh làm người nghèo khổ lắm, tên là Suddhā Mānava, ở mướn coi giữ ao sen cho người. Họ cho phép mỗi bữa chỉ được hái 2 bông sen đổi gạo mà chỉ độ thôi. Một hôm đang đem 2 bông sen đi bán gặp Đức Phật Konāgamana, Đức Phật thấy bèn chúm chiếm cười. Y liền bạch Phật tại sao ngài cười. Phật đáp: Người là em ta, vì ta đã thành Chánh giác, còn người sẽ thành Chánh giác trong ngày vị lai vậy. Nghe xong hết sức vui mừng, tính nhịn đói bữa đó để đem 2 bông sen dâng cho Phật và nguyện cho thành Chánh giác như ngài. Đức Phật thọ lấy bông sen và trải ra ngồi lên trên. Thấy nắng lắm ngài bèn nguyện cho đừng nắng Đức Phật . Liền khi ấy có 4 cây mọc lên và 2 khổ vải kết thành một tấm trần che Đức Phật cho khỏi nắng. Đức Phật bèn cầu chúc và thọ ký cho. Khi ấy tất cả chư thiên và phạm thiên nghe Đức Phật cầu chúc thì đều đồng nhau hoan hô và cầu chúc theo, tiếng nghe rền vang inh ỏi cả trời. Do sự hy sinh nhịn đói ấy nên khi thành chánh quả có cây Như ý thọ mọc lên có đủ vật thực cho chúng sanh dùng và bố thí bông sen cho Phật, nên sau thành chánh quả, đi mỗi bước đều có bông sen mọc lên đỡ bàn chân ngài.

 

Kế tiếp, quả địa cầu sau có 1 vị Phật tổ ra đời tên là Dhammasāmi (chính là Ma vương thành Phật vậy) khi còn Bồ-tát thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, đắc đạo dưới cây Long thọ (Sala) tuổi thọ 10 muôn năm, bề cao ngài 40 thước, hào quang trong mình Phật luôn luôn phóng ra sáng ngời như mặt trời mặt trăng, luôn luôn chớp nhoáng tới lui không ngớt. Do nhờ pháp Ba-la-mật, khi Đức Phật đi, đứng nằm ngồi đều có cây lọng bề cao 16 do tuần che ngài luôn, và có hầm vàng hầm bạc mọc lên để cho chúng sanh cần dùng.

Nói về một pháp Ba-la-mật: khi ấy tiền kiếp ngài sanh lên tên là Bodhināma làm quan đại thần. Một hôm Đức Phật Ca Diếp (Kassapa) nhập đại định, đức vua trong xứ ấy hay bèn cho quan quân canh giữ không cho ai được phép làm phước tới Đức Phật khi ngài xả định, nếu ai phi phép thì bị xử trảm. Lúc ấy vị đại thần Bodhināma bèn biểu vợ con sửa soạn thực phẩm và 1 lá y định đem dâng cho Đức Phật. Sáng ra ông đem vật thực và lá y tới trước chùa thấy quân lính bao vây dày đặc. Lính thấy ông đem đồ lại thì hỏi, ông nói thật rằng đem đồ dâng cho Phật. Quân lính liền bắt ông đem về cho vua, vua truyền lịnh xử trảm. Lúc ấy Đức Phật vừa xả định biết được liền phóng hào quang ra cho vị ấy thấy ngài ở trước mặt, ông rất mừng và đem vật thực và lá y dâng cho Phật, Đức Phật có vỗ đầu ông và nói xin cho nhà ngươi vô hại, rồi ngài thọ thực. Vị quan ấy dâng xong nguyện cho thành được 1 bậc Chánh Giác trong thời vị lai. Đức Phật thọ ký cho vừa xong thì quân lính đem ông ra xử trảm. Lúc chém ông thì mặt đất rung rinh làm cho đền đài nhà vua đều sụp đổ. Vua sợ hãi bèn truyền lệnh cho đóng mấy cửa thành. Lúc ấy chỗ chém Bồ-tát liền mọc lên một tòa lâu đài bằng 7 thứ ngọc có 1 ngàn tiên nữ chầu chực và 16 hầm vàng bạc mọc lên 4 góc thành và cây Như ý thọ cũng mọc lên do oai lực phước báu của Bồ-tát. Còn vị quan ấy thì sống lại như thường, tuổi được 5 trăm, có cả vợ con và quan quân hầu hạ. Do phước báu liều mạng sống dâng cơm cho Phật, khi sanh ra kiếp nào cũng có thứ lúa Sali mọc lên hằng hà sa số cho bá tánh gặt, cần dùng bao nhiêu cũng không hết.

 

Sau khi ấy, có 1 quả địa cầu có 2 vị Phật tổ ra đời. Vị thứ nhất tên là Nārada (chính là Rahula Asurin là chúa của bọn Atula thành Phật). Khi ấy thấy 4 điềm rồi chán nản bỏ nhà xuất gia, đắc đạo dưới cây trầm hương, bề cao ngài 60 thước. Hào quang phóng ra luôn luôn như chớp nháng, có thứ hào quang hình như bông sen sáng ngời phóng ra quanh quẩn luôn chung quanh Đức Phật. Do phước Ba-la-mật của Đức Phật mà mặt địa cầu trở thành thực phẩm, có 7 vị ngọt ngon chúng sanh móc lấy mặt đất mà dùng như vật thực.

Nói về một pháp Ba-la-mật: có 1 kiếp Bồ-tát sanh ra làm vua tên Sirigutta có 8 vị Bà-la-môn tới nghe về pháp nguyện thành một Bà-la-môn cho vua nghe, rồi xin ngài cho ngôi vua, đức Bồ-tát cho hết rồi dẫn vợ và 2 con đem ở trên núi và thọ trì 6 giới theo các đạo sĩ và ẩn tu nơi ấy. Lúc ấy, có 1 con Dạ xoa bề cao 60 thước, tới trước mặt Bồ-tát xin 2 đứa con để về ăn thịt. Bồ-tát liền cho 2 đứa con và nói tôi đã ăn 7 con tượng, 14 con ngựa, 20 con thú rừng mà còn đói lắm xin ngài tội nghiệp cho 2 đứa con để ăn thịt. Bồ-tát liền cho 2 đứa con cho Dạ xoa rồi nguyện cho thành 1 vị Phật tổ để độ tận chúng sanh. Lúc ấy mặt địa cầu rung rinh, rúng động. Tất cả chư thiên và phạm thiên đều vỗ tay hoan nghênh sự toàn thắng của Bồ-tát, tiếng nghe vang rền cả trời, lại giông mưa sấm chớp gầm thét nghe inh ỏi. Vừa lúc con Dạ xoa đem 2 đứa con ra mà ăn tươi nuốt sống, vừa cho Bồ-tát ngó thấy. Nhưng ngài không buồn giận, lại vui thích với phước báu ngài đã làm.

(Lời soạn giả: Chúng ta phần đông đều nói từ bi, tội nghiệp mà chỉ từ bi với vợ con mình thôi, còn vợ con người có điều chi khổ sở, mình chỉ lấy con mắt ngó mà cười, chớ không tội nghiệp. Đừng nói chi tới bố thí vợ con cho người, mà dầu có ai rủ đi xuất gia tu hành, thì nói tôi vì lòng từ bi, tội nghiệp vợ con bỏ đi không đành, nói nghe cho cao thượng, chớ không lẽ nói mình vì quyến luyến hoặc vì ái tình mà dứt bỏ đi không được thì sợ thẹn. Còn trái lại các vị Bồ-tát ngài không vì từ bi, tội nghiệp vợ con mình, mà lại từ bi thương xót tất cả chúng sanh hơn là thương mình và vợ con mình. Vì thấy cái khổ chúng sanh chịu không được rồi không nghĩ tới mình hoặc vợ con mình mới dứt bỏ mà bố thí được).

 

Kế sau đó Đức Phật Rangsi Muni (chính là Sonabrāhma), khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, đắc đạo dưới cây sơn, tuổi thọ 5 ngàn năm, bề cao ngài 30 thước. Hào quang trong mình Phật phóng ra luôn luôn, lúc ban ngày thì màu vàng, ban đêm thì màu xanh, sáng ngời như ngọc, nhờ hào quang của Đức Phật nên chúng sanh khi ấy màu da đẹp như vàng ròng, không dơ bẩn. Nhờ pháp Ba-la-mật của Phật mà chúng sanh chỉ lấy hột bông cải trồng xuống rồi mọc lên đủ thứ vật thực phẩm và đồ vật dụng đủ thứ không thiếu món chi.

Nói về một pháp Ba-la-mật của ngài: có 1 kiếp Bồ-tát sanh làm người lái buôn tên Māgha Mānava rất thông thạo về nghề buôn bán một lời mười, nhưng 4 lần bị tai hại là bị chìm thuyền, nhà cháy, cướp giựt, sau lại bị nhà vua tịch thâu gia sản. Bồ-tát chán nản, bỏ đi chỉ lấy được 1 lá y vàng và 10 muôn lượng vàng đem theo để làm vốn. Gặp một vị tỳ khưu Thượng thinh văn của Đức Phật Kakusandha nhập đại định 7 ngày, Māgha Mānava trong sạch đem y và của bố thí hiến cho ngài và nguyện cho thành vị Phật tổ để độ tận chúng sanh. Vị A-la-hán cầu chúc xong chỗ ấy bèn mọc lên một cây Như ý thọ có 1 cái đền bằng ngọc cho ông ở nơi ấy.

-oOo-

Kế quả địa cầu sau đó có 2 vị Phật tổ ra đời, vị thứ nhất tên Devadepa (chính là Subha Brahma) khi thấy 4 điềm bèn chán nản xuất gia, đắc đạo dưới cây Cầy, tuổi thọ 8 muôn năm, bề cao ngài 40 thước, hào quang trong mình Phật túa ra luôn luôn màu vàng rực rỡ do nhờ phước Ba-la-mật của Phật mà bụi trần trên mặt đất biến thành gạo Sali và cây Như ý thọ mọc lên có đủ thực phẩm cho chúng sanh dùng.

Nói về 1 pháp Ba-la-mật: có 1 kiếp Bồ-tát sanh làm tượng (voi chúa) tên là Chadanta có 6 ngà, gặp xác một vị A-la-hán niết bàn gần chỗ ở, bèn nguyện cưa trên hư không rớt xuống rồi cưa ngà làm chỗ để thiêu xác vị A-la-hán ấy và làm phước trong 7 ngày rồi nguyện cho thành Phật tổ, sau khi mãn kiếp ấy liền sanh về cung trời Đâu suất.

Kế sau đó Đức Phật Narasi Muni (chính là Totī Brahma thành đạo), khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, thành đạo dưới cây Cẩm lai, tuổi thọ 80 năm, bề cao ngài 30 thước, hào quang trong kim thân Phật túa ra luôn ban ngày ánh sáng như ngọc mani trắng, ban đêm thì màu vàng rực rỡ. Do phước Ba-la-mật của ngài, có lúa Sali và cây Như ý thọ mọc lên để cho bá tánh cần dùng, người ta lúc ấy do hào quang của Phật mà màu da như vàng ròng. Khi Đức Phật ngự nơi nào đều có cây lọng bằng bảy thứ ngọc báu cao 3 do tuần luôn luôn ở trên hư không, che Đức Phật.

Nói về một pháp Ba-la-mật: có 1 kiếp Bồ-tát sanh làm Nanda Mānava, gặp Đức Phật độc giác bèn phát tâm trong sạch đem y cà sa đáng giá 100.000 đồng, dâng cho ngài và nguyện cho thành 1 bậc chánh giác để độ tận chúng sanh.

Sau khi Đức Phật Narasi Muni nhập diệt rồi có 1 thời không gian là 1 A-tăng-kỳ đại kiếp không có Đức Phật nào ra đời.

 

Kế sau đó có 2 vị Phật tổ ra đời, vị thứ nhất tên là Tissa (chính là voi Nālāgiri thành đạo), khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, đắc đạo dưới cây da, tuổi thọ 8 muôn năm, bề cao ngài 40 thước.

Hào quang trong mình Phật phóng ra đủ thứ, có thứ sáng rực như lửa cả ngày và đêm, có thứ trắng xóa nhìn giống như chiếc thuyền, có thứ như cây lọng, có thứ như cây phướn, có thứ túa ra theo 1000 lông mày của ngài, luôn luôn quay cuộn theo ngài. Do phước Ba-la-mật của ngài có nhiều cây Như ý thị mọc lên có đủ thực phẩm và đồ trang sức cho chúng sanh dùng theo ý muốn.

Nói về một pháp Ba-la-mật: Có 1 kiếp ngài sanh làm vua tên Dhamma Sena một hôm đi dạo vườn hoa với 2 con và vợ, có hai con Dạ xoa tới xin đứa con, khi về gần tới thành có 1 ông già lụm cụm tới xin hoàng hậu. Đức vua cho luôn. Ông than mình nghèo khổ không có chi nuôi bà, vua bèn cho cả ngôi báu cho ông già ấy. Khi tôn vương xong, đức Bồ-tát bèn xuất gia theo đạo sĩ, đắc các pháp thần thông.

Một hôm nghe tin Phật Konāgamana ra đời bèn bay tới đãnh lễ nghe pháp. Khi Đức Phật thuyết được một câu kệ thì ông xin Phật nghỉ, để ông bố thí pháp bảo, bèn lấy móng tay, nguyện cho bén như gươm cắt đầu bố thí pháp và nguyện cho thành 1 vị Phật tổ để độ chúng sanh thoát khỏi khổ, lúc ấy toàn thể địa cầu đều rung rinh lạ lùng ghê gớm.

 

Kế sau đó, có 1 vị Phật tổ ra đời tên là Sumangana (là voi tượng Pālilāya thành đạo) khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia dưới cây Mù u, tuổi thọ 10 muôn năm, bề cao Đức Phật 30 thước, hào quang Đức Phật phóng ra luôn luôn quanh quẩn theo ngài, ban đêm thì màu trắng ngời như bạc, ban ngày thì màu sáng ánh như vàng ròng. Do phước Ba-la-mật của ngài có nhiều cây Như ý thọ mọc lên, có đủ thực phẩm và đồ trang sức cho chúng sanh dùng không thiếu món chi, người ta lúc ấy sung sướng vô cùng, như cảnh trời vui mừng hát múa theo những tiếng nhạc du dương khi gió cuốn đưa chạm vào lá những cây Như ý thọ ấy.

Nói về 1 pháp Ba-la-mật: khi ngài còn làm Bồ-tát, có 1 kiếp sanh làm chuyển luân vương, Bồ-tát có báu giàu sang trong 4 biển. Một hôm vua sai vị bá hộ bảo đi tìm vàng ngọc, ông đi tới một nước kia, khi hay tin Đức Phật Kakusandha, đã ra đời, ông bèn vẽ hình Phật và về tâu cho vua nghe tự sự, vua hết sức vui mừng đến chết giấc 3 lần. Khi tỉnh lại ngài bèn nhường ngôi cho vị bá hộ ấy vì có công cho ngài hay tin Đức Phật ra đời, rồi ngài đi chân không tới 1 cây đại thọ ngồi nghỉ, rồi thành tâm đảnh lễ Đức Phật từ phương xa và nguyện 8 món đồ xuất gia bay tới cho ông. Đức Phật biết được tâm ông bèn sai 8 món phụ tùng bay đi tới chỗ vua nghỉ, vua rất vui mừng và thọ lãnh xuất gia tại chỗ ấy. Đoạn ông lấy mão ngọc thảy lên không trung và sai đi bạch Phật rằng: ông đã xuất gia và đi đến đãnh lễ Phật. Mão ấy bay đến nơi Phật ngự và bạnh y như lời vua sai, rồi đức vua lần vào xóm đi khất thực xin ăn, độ xong, tham thiền và đắc thiền, rồi bay tới nơi Phật ngự. Khi tới chùa gặp Phật, hết sức vui mừng đến chết giấc 3 lần. Khi tỉnh lại xin Đức Phật thuyết pháp cho nghe được 1 câu kệ, bèn xin Đức Phật ngưng thuyết để cho ông bố thí pháp bảo, vì pháp bảo quý giá, vô giá, rồi ông lấy móng tay nguyện cho bén như gươm cắt đầu mình để lên 2 bàn tay mà bố thí pháp cho Đức Phật và nguyện xin cho đắc thành chánh quả để độ tận chúng sanh, Đức Phật thọ ký cho.

 

Đức Phật Thích Ca giảng giải thêm cho Xá Lợi Phất rằng:

- Này Xá Lợi Phất, nếu ai chưa đắc đạo quả trong giáo pháp của Như Lai thì nguyện cho đắc đạo quả trong thời kỳ của 10 vị Phật tổ sau này sẽ được y như nguyện không sai vậy.

(Theo Chú giải, như ai tạo được phước lành là bố thí, trì giới, thì nên nguyện như vầy: Idam Vatta Me Punnam Àsavakkhayo Vaham Hotu Àgàgate; nghĩa: do sự phước báu mà tôi đã làm đây xin kết được duyên để diệt tận các pháp trầm luân trong ngày vị lai. Khi đã nguyện như thế thì thế nào cũng gặp được 1 Đức Phật trong ngày vị lai chẳng sai vậy.)

Này Xá Lợi Phất, chư Bồ-tát đã được thọ ký 10 vị còn 500 vị nữa pháp Ba-la-mật chưa tròn đủ nên chưa có Đức Phật nào thọ ký cho.

(Chánh Giác Tông)

Wednesday, March 17, 2021

LÃNH ĐỊA CỦA TAM BẢO

 

‘Tự’ trong tiếng Pāḷi có hai chữ: Vihāra và Arāma. Khi nói đến hai chữ này chúng ta phải biết phân biệt.

Arāma là một cái pagoda/temple. Nhưng Vihāra phải là một cái monastery.

Vihāra là nơi tu tập, hay tu viện, gồm có hai cái chánh điện. Còn Arāma chỉ có 1 chánh điện mà thôi.

Vihāra chia làm hai chánh điện:

(1) Sīmā Hall, thánh điện, làm chỗ kiết giới

(2) Sālā Pālī, giảng đường, giảng dạy

Sīmā hall dành cho tăng (Sangha). Sālā Pālī dành cho cư sĩ (Upasika/Upasiko). Người Phật tử phải biết điều đó.

Khi người ta nói Vihāra thì trong tự viện đó phải có hai chánh điện.

Chánh điện Sima Hall dành cho tăng, dành để hành tăng sự (Sangha Kamma): lễ giới đàn, truyền giới, bố tát Uposatha, phát lồ. Phật tử ít có dịp, khó được lên Sima Hall.

Trong giới luật nói rõ, ngay cả Đức Phật và chư tăng không được phép mang dép vào trong Sīmā Hall. Do đó nơi đây bảo mật lắm, cẩn thận lắm. Thường thường có những cục đá để báo ranh giới sima mà Tăng chỉ định sau khi kiết giới. Khuôn viên đó trở thành Thánh địa Tam Bảo (Tiratana bhūmi).

Ngôi chùa mà chưa Kiết giới Sima, không có Sima Hall, thì chưa được gọi là  Tiratana bhūmi (Lãnh địa, khu vực của Tam bảo).

Sālā Pālī là nơi dành cho cư sĩ tới tụng kinh, cúng dường, hay xin giới, ngồi thiền. Người ta gọi là nơi giảng đường, giảng dạy, nơi tu học dành cho cư sĩ. Chư tăng cử tới giảng dạy cho người cư sĩ ở nơi đó học về Tam học (giới, định, tuệ). Do đó, nơi gọi là Vihāra đòi hỏi cần phải có hai điều kiện không thể thiếu được.

Quí Phật tử qua bên Thái Lan thấy dễ dàng lắm. Giống như chùa Mahathat, chùa Mahachulalongkorn, hay Wat Arun là có hai chánh điện. Qua thiền viện Mahasi, chỗ trên lầu, kế đằng trước nhà của ngài Jatila đó là  Sīmā Hall, mà xuống đằng sau có cái nhà hai tầng to cao đó là Sālā Pālī. Cái nhà lát đá cẩm thạch, cửa kiếng, vô lên lầu có một cái nữa đó là Sālā Pālī. Sīmā Hall thì khi nào có người xuất gia thì có ông Phật tử lên dọn dẹp bật đèn bật quạt lên. Còn xuống đằng sau có nhiều tòa nhà thật to đó là Sālā Pālī, nơi đó không kiết giới Sīmā.

Trong một ngôi chùa chỉ kiết giới một ngôi nhà Sīmā thôi chứ không được kiết giới tùm lum. Vì đó là phạm luật. Do đó, vô thiền viện Mahasi thấy có hai chánh điện là như vậy đó. Cái chánh điện mà ở giữa lên lầu đó là Sīmā để cho chư tăng xài Sangha Kamma (tăng sự). Còn ngoài ra không có phận sự, không có việc làm thì có người quản lý khóa cửa lại. Sợ những người không hiểu không biết về Luật bước vô đó mang giày mang dép thì quả báo khổ đến cho người đó rất là nặng.

Sīmā từ khi kiết giới xong thì phía trên trên 16 yojana (do tuần) không có chư thiên nào đi qua được. Ở dưới từ 16 yojana trở xuống dưới không có địa ngục. Nếu có thì phải dời đi chứ không được ở đó. Cho nên quí Phật tử phải nhớ nơi nào có Sīmā hall thì nơi đó có Thánh địa Tam bảo (Tiratana bhūmi), nơi đó hết sức là phước báu, hết sức là oai lực.

Khi Đức Phật ngồi trong khuôn viên Tiratana bhūmi này, Ngài ngồi ở giữa, chư tăng ngồi dọc hai hàng hai bên, thì chư thiên bay ngang phải né dạt qua hai bên, chứ không bay xuyên ngang phía trên được. Khi đang làm lễ tăng sự, chư thiên phải bay né sang hai bên như vậy, chứ nếu bay ngang phía trên đầu thì Tứ đại thiên vương đánh rớt xuống sa địa ngục. Khi có tăng sự thì phải bay né ra hai bên như vậy.  Đó là Luật, không được bay trên đất của Tiratana bhūmi khi có tăng sự (Sangha Kamma). Còn khi đóng cửa khóa lại thì bay qua bay lại không sao.

Chỗ Tiratana bhūmi nếu là chiều dài lớn thì người ta có đặt những cột trụ để báo cho biết nơi đó có ranh giới Sīmā. Thường là 4 hay 6  hay 9 trụ, tùy theo khuôn viên lớn hay nhỏ. Khi Kiết giới Sīmā thì trên mái nhà này không có mái nhà nào cao hơn che lấp qua. Do đó những lần như vậy thì chư tăng lựa chỗ nào khoảng trống rộng lớn không có cái gì chọt vô cái mái nhà kiết giới. Cây phải cắt hết những tán lá phía trên, không tán lá nào nằm trong khuôn viên kiết giới Sīmā. Cho nên, không có ai làm kiết giới Sīmā nào nằm trong chỗ của cây hết. Để khỏi phải cưa. Nhiều khi cưa đụng phải Rukkhadevatā (Thần cây) cũng ngại.

 

Còn Arāma (pagoda/temple) thì là ‘chùa làng’, chùa nhỏ ở những thôn làng mà người dân đi ra đi vô, giống như cái miểu cái đình thôi.

Trong đời Đức Phật có ba ngôi chùa rất to lớn:

1. Jetavana Vihāra (Kỳ Viên Tự)

2. Veluvana  Vihāra (Trúc Lâm Tự)

3. Pubbārama (Đông Phương Tự), đây là khu vực do bà Visākhā làm. Bà tốn 90 triệu đồng tiền vàng do bán đấu giá cái áo mà ngày lễ cưới bà mà người cha bỏ tiền công ra mướn người ta kết hột xoàn trong đó. Khi người giúp việc của bà Visākhā bỏ quên cái áo trên chánh điện của Jetavana, khi trở lại thì đại đức Ānanda đã dọn rồi, bà không dám đụng vô. Qua ngày hôm sau bà xin Đức Phật chỉ dạy. Ngài nói lấy ra đem bán đấu giá, người nào mua được cho người ta thỉnh mua thì không phạm tội; thứ hai là lấy cái tiền bán đấu giá đó làm việc nên làm. Thế là bà xin cúng dường một ngôi chùa, đây là Đông Phương Tự.

 

 Jetavana là do trưởng giả Cấp Cô Độc cúng dường.

Veluvana  là do vua Bình Sa Vương (Bimbisāra /Tần Bà Sa La) cha của vua A-Xà-Thế cúng dường cho Ngài. Trên con đường đi tìm đạo, Đức Phật có hứa với vua Bình Sa Vương là Ngài sẽ trở lại độ cho Vua. Sau khi đắc đạo quả xong Ngài quay trở lại độ cho vua Bình Sa đắc được Sơ đạo, Sơ quả. Xong rồi ông phát tâm cúng dường ngôi chùa cho Đức Phật.

Sau đó Đức Phật lại tiếp tục đi trở về Kapilavatthu để độ hoàng thân quốc thích theo lời thỉnh cầu của Vua cha. Ngài về đó ở lại độ cho hoàng thân quốc thích của Ngài đắc đạo quả xong Ngài ra đi. Khi ra đi được một thời gian thì Pubbārama hình thành vì lúc đó Đức Phật trở về làng của bà Visākhā để độ những người thân bằng quyến thuộc ở đó. Lúc đó bà Visākhā cúng dường Đức Phật Pubbārama. Pubbārama chỉ có một chánh điện thôi. Còn Kỳ Viên và Trúc Lâm đều có hai chánh điện cả. Mang tên là Vihara đều phải thực hiện hai ngôi chánh điện nơi tu viện, thiền viện đó.

Sima Hall hay Sangha Kamma hay Tiratana Bhūmi – lãnh địa của Tam bảo, thánh địa tam bảo.

Sālā Pālī dành cho Upasika những cận sự nam, cận sự nữ tới tu Tam học tại nơi đó.

Khi quí Phật tử là người cư sĩ thì chỉ đến Sālā Pālī mà thôi chứ không được tới Sima Hall nơi Tiratana Bhūmi (thánh địa của Tam Bảo). Thường thường nơi đó dành cho chư tăng.

Nơi Sālā Pālī này thì quí Phật tử có thể cúng giỗ, cầu siêu cha mẹ ông bà; cúng dường, để bát, dâng quê, cúng vật thực cho chư tăng. Nơi đây sau khi cúng dường xong, chiều đó học Phật pháp Đức Phật dạy, hay chư tăng tới giảng dạy.

 

Trên đường quí Phật tử đi các nơi ở Thái Miến thấy ghi chữ Vihara là biết hai chánh điện, đi vô Arama là thấy có một chánh điện. Quý Phật tử hỏi chỗ nào là Sālā Pālī thì quí Phật tử đi tới. Chỗ nào là Sima Hall thì quý Phật tử đừng đi tới. Vô đó là đụng với chư tăng. Nhiều khi quí Phật tử đi tới thấy người ta đang ngủ, quần áo chưa chỉnh tề, kỳ lắm. Sima Hall -- Tiratana Bhūmi đừng tới, để không phạm luật, để không có những lỗi lầm bất ngờ mà không ai chỉ dạy mình. Sống trên đời phải biết để phòng hộ cho mình được an toàn. Nên nhớ chỗ Sima là chỗ cho chư tăng, chỗ Sālā là chỗ cho cư sĩ. Vô mà thấy là Vihara là phải hỏi liền chỗ nào Sima, chỗ nào Sālā. Còn Arama thì chỉ có một, đó là nơi kiết giới Sima đó!!!! Cho nên quí Phật tử phải cẩn thận đó. Chỗ đó có một thôi thì vô phải tháo dép ra.

Do đó phải nhớ, Arama thì tới vô đảnh lễ, vô kiếm Phật cũng được, nhưng mà phải tháo dép ra. Tháo dép ra là ngoài cái hàng rào mốc của Sima; chớ không phải đem vô trong. Nhiều Phật tử còn đem vô trong để góc tường, bỏ bọc ny-lon nữa. Bây giờ thì người ta có ghi rồi. Đều có những trụ mốc ghi chữ ‘SĪMĀ’ hết. Một cái bia có chữ  SĪMĀ, hoa văn xung quanh.

 

Khi kiết giới Sīmā thì không một người quyết định được. Viện chủ đi nữa, cũng không được quyền. Phải trình với Tăng. Tăng cử 8 người tới, theo Luật. Bắt đầu mới chỉ:

-Cái nơi này không có gò mối

-Cái nơi này không có phải nơi nguy hiểm

-Cái nơi này là nơi an toàn.

Rồi các vị Luật sư chỉ định, rồi mới bắt đầu kiết giới Sīmā lên. Chứ không phải một cá nhân.

Sīmā rất là quan trọng. Từ nơi đó quý Phật tử nhìn thấy cái gì đó rất cao quý.

Bên Miến Điện, nơi ngài Kundala, cứ mỗi một tháng hai kỳ Uposatha là phát lồ của chư tăng, lên tụ hội tụng giới bổn  Pāṭimokkha. Pāṭimokkha có hai cách tụng. Nếu như tụng vắn tắt thì tụng Pāṭimokkha những cái mātikā những cái tựa đề của phần Pāṭimokkha, hay là tụng luôn đủ 227 giới của phần Pāṭimokkha, “Suṇātu me…, Suṇātu me…, Suṇātu me…”, (như vầy tôi được nghe, như vầy tôi được nghe…) bắt đầu là kể lại các điều luật, từ 4 Bất cộng trụ (Pārājika), xuống 13 cái Tăng tàn (Sanghādisesa), hai cái Bất định (aniyata) xong xuôi là Ưng phát lồ hay Ưng xả đối trị bắt đầu kể ra hết… Đọc Matika là khi thì giờ eo hẹp, hoặc có người bịnh là phải kết thúc nhanh. Nếu điều kiện cho phép, và có người thuộc lòng Pāṭimokkha thì người đó sẽ đọc hết nguyên bài đủ 227 giới.

Mỗi lần Uposatha xong, sau khi chư tăng tụng kinh xong thì đảnh lễ Phật đảnh lễ ngài Kundala rồi ra về. Ngài Kundala là người ở lại. Trong chỗ Kiết giới Sima của thiền viện Mahasi, có một cái phòng. Ngài Kundala vô đây nghỉ lại một đêm, ở lại với Đức Phật. Hết sức là cao quý, hết sức là thanh tịnh. Sáng hôm sau ngài mới về phòng của ngài. Chỗ Sīmā không có restroom được, phải trong sạch mới được. Do đó, người nào muốn xin ở lại với Đức Phật thì người đó phải ‘bụng tốt’, bụng không hư mới được. Sima là nơi rất thánh, rất linh thiêng. Quý Phật tử muốn cầu nguyện xin chi cũng linh thiêng. Nhưng Phật tử không được tới Sima. 

Sống khôn thác thiêng

“Những gia đình nào mà có con cái hiếu thảo thì những gia đình đó được coi là gia đình [có] Phạm thiên”. Đó là câu trong bài kinh "Ngan...