Tuesday, March 9, 2021

VỤN VẶT NIẾT BÀN


Hết Tết, nhìn hoa mai rụng đầy trên sân, nhìn rác chất ngổn ngang ngoài đường chưa có người đổ, cứ nhớ Phật.

Chắc có kẻ trợn mắt sao mình dám báng bổ Phật bằng câu nói nhìn rác mà nhớ Phật. Nếu có ai như vậy thì đó là người chưa từng biết yêu. Một khi đã yêu rồi thì nhìn cái gì cũng thấy người yêu trong đó hết. Nấu món ăn nếm thấy ngon là ước gì người yêu có bên cạnh để múc cho bản một chén. Người yêu kính Phật thì nhìn đâu cũng thấy Phật. Mà Phật cũng đâu có chấp những thứ gì gớm xấu rồi không xài làm ví dụ đâu. Điển hình, Ngài nói, một chút phân dính đầu cây tăm cũng là đáng gớm, một chút hiện hữu cũng là đáng nhờm đó thay.

Vì sao nhìn hoa mai rụng lại nhớ Phật? Vào cái ngày đau buồn tiếc thương 2600 năm trước, cái hôm Phật niết-bàn ấy, thành Kusinārā không có một đống rác hay đống chất thải nào. Vì sao, vì tất cả đều được bông hoa Mạn-đà-la phủ lên. Phủ lên ngập đến đầu gối.
Lúc Ngài viên tịch nằm trong rừng giữa hai cây Sala, thì chư thiên rải hoa đầy lên thi thể của Ngài. Hoa ở đâu mà chư thiên rải dữ vậy? Lúc ấy rừng Sala nở đầy hoa, và chư thiên lay động địa cầu cho những bông hoa sala rụng xuống, giống như mồng 5 Tết đụng vô cây mai là nó rơi lả tả. Và những bông hoa Mạn-đà-la từ cõi trời cũng rơi xuống. Bông hoa này có màu vàng to như cái dù, và hạt phấn hoa to bằng cái chén uống trà. Cùng phấn hoa, nhụy hoa, cánh hoa của các loại hoa khác, và các loại trầm hương từ cõi trời nữa. Chúng được rắc xuống phủ đầy và phủ dầy lên kim thân của Ngài. Chắc là thơm phải biết, nhỉ.

Vụn vặt chút chuyện hoa và rác. Ít nữa sẽ kể tiếp chuyện Phật niết-bàn mà cụ thể là chuyện về ông Bà-la-môn Dona, cái ông “cầm nhầm” cái xá lợi răng bên phải của Phật giấu lên tóc đó. Ông này là ai -- ổng đâu phải tổng thư ký liên hiệp quốc đâu -- mà ổng có quyền phân chia xá lợi trong lúc đó vua của bao nhiêu nước đang đùng đùng binh khí hờm sẵn để giành?


VỤN VẶT… NIẾT BÀN (1)
Trưa viết xong cái tút, định chạy một vòng ra đường Bình Long gần nhà kiếm mua con gì đó phóng sanh, vậy mà cuối cùng đi gần khắp Sài Gòn chẳng thấy chỗ nào. Lang thang qua quận 11, rồi quận 5, quận 8, quận 5 về đường Võ Văn Kiệt, gặp mấy người đang câu cá. Nhìn trong thau có bốn con cá gì giống cá trầu. Năn nỉ mấy ảnh bán, cuối cùng mấy ảnh trút ụp xuống sông lại, với giá 100k. Hoan hỷ cả đôi bên. Chạy tiếp một lèo ngang chợ Bến Thành, vòng Phú Nhuận, rồi Q3, rồi về đến nhà. Mất 3 tiếng đồng hồ trong khi nghĩ là chỉ tạt ra đường mua cao lắm 15 phút là xong. Chợt thấy mình tính thời gian giống ở... trên mặt trăng quá. Nhớ bữa sư Sán Nhiên giảng có nói khi người ta lên mặt trăng làm việc trong một ngày, gởi ‘báo cáo’ về trái đất thì đã 28 ngày.
Kể tiếp chuyện Niết-bàn. Vụ tính lệch giờ này cũng vậy. Có một số chư thiên có tuổi thọ rất là lâu, khi nghe Bậc Đại Nhân sẽ tái sanh về cõi nhân loại họ bắt đầu kết vòng hoa và nghĩ rằng, chúng ta sẽ mang đến vào ngày nhập thai. Họ tính thời gian làm sao đó mà trễ tuốt. Khi biết Bồ tát sẽ đản sanh ở vườn Lumbini, họ nói sẽ mang vòng hoa đến, thì nghe được “đã đản sanh rồi”. Họ trễ luôn cả ngày Toàn giác, ngày chuyển pháp luân, ngày Ngài thị hiện song thông, rồi trễ luôn cả ngày Ngài trở lại trần gian. Rồi họ hẹn sẽ đến vào ngày Ngài buông bỏ thọ hành, họ cũng trễ luôn. Họ đành hẹn sẽ đến vào ngày Ngài niết-bàn. Nhưng mà cuối cùng vòng hoa vẫn chưa kết xong khi nghe tin “hôm nay Ngài niết-bàn”. Họ tiếc nuối ghê lắm luôn, họ nói, sao ngài không ráng thêm một ngày nữa dầu chỉ là cho việc húp cháo. Lần này họ phải te te xách cái vòng hoa dở dang đó tới liền, nhưng chen đâu có lọt, chật như bột nén trong ống tre, họ chỉ tới được chỗ giáp ranh thiên giới. Vừa đi họ vừa nắm tay bá cổ nhau ca hát bài ca ngợi Tam Bảo, về 32 đại nhân tướng, 6 màu hào quang, về 10 ba-la-mật, về 550 chuyện tiền thân, 14 tuệ của Đức Phật vang lừng không trung. Nhân chuyện này, Sư Giác Nguyên cũng có nói người VN mình là giờ dây thun, kiếp trước chắc là từ cõi chư thiên xuống.
Đêm cuối cùng, canh đầu Ngài thuyết giảng giáo pháp cho những người dân Malla, canh giữa ngài giảng cho Subhadda, canh cuối ngài giáo giới chư tỳ kheo, và viên tịch vào lúc hừng sáng. Đại địa chấn động. Ngài Ānanda thông báo ai tín cho các vua xứ Malla. Nghe tin, họ kéo đến mang theo tràng hoa, hương liệu, 500 xấp vải và nhạc cụ. (Chắc là có đem theo ban nhạc phục vụ đám ma nữa). Mình có thể tưởng tượng được khung cảnh chộn rộn và bi ai đó. Nhiều vị tỳ kheo khóc than, những vị khác thì lặng lẽ. Ngài Anuruddha la: Huynh đệ đừng khóc thương thảm não như thế! Ðức Thế Tôn đã dạy có sanh thì có diệt, có thành thì có hoại, có hợp thì có tan. Vì vậy lúc này nên theo dõi hơi thở, giữ gìn chánh niệm… Ngài hướng dẫn họ tụng những bài kinh về khổ, vô thường, vô ngã, giải thoát. Cái này mình nên bắt chước, lúc “tang gia bối rối” mà mình không có phận sự thì để giữ bình tâm là cứ theo dõi hơi thở và tụng khổ, vô thường, vô ngã, giải thoát… thôi.
Chư thiên và người dân Malla ở Kusinārā nghĩ là “Hôm nay đã quá thời gian hỏa táng, vậy ngày mai chúng ta sẽ hỏa táng thi thể của Đức Thế Tôn.” Cứ vậy mà qua 7 ngày. Ngày thứ bảy, họ cung nghinh kim thân của Đức Phật đi qua giữa phố rồi đặt xuống tại ngôi bảo điện Makutabhadhana của người dân Malla. Lúc này ngài Ca Diếp cùng 500 vị tỳ kheo đang trên đường từ Pava về Kusinārā. Theo một bài hành hương của ai đó trên trang Thư Viện Hoa sen thì Pava thời đức Phật là một đô thị cổ, trung tâm truyền giáo của Kỳ Na Giáo bây giờ là một thị trấn nhỏ đông dân cách Kusinārā khoảng 15km về hướng Đông, đây là nơi Phật đã dùng bữa cuối cùng của Cunda. Bữa mồng 1 Tết, từ nhà chạy qua quận 12 cũng 15 cây số mà chạy thấy xa lắc. Trong khi ngài Ca Diếp đi bộ sốt ruột sốt gan như vậy, nghe mà thương há. Trong đoàn lại còn có một ông Subhadda quậy (Subhadda này khác với Subhadda ở trên), ổng nói là Phật mất rồi thì từ nay tha hồ tung tăng không còn ai kềm kẹp nữa, phẻ re. Theo những bài giảng lịch sử của Thầy Chơn Minh thì chính vì ông Subhadda ‘tạo phản’ như vậy nên ngài Ca Diếp quyết định phải kiết tập kinh điển ngay và luôn sau đó, kẻo để lâu thì giáo pháp của Đức Phật bị mai một mất.
‘Nhà quàn’ ở Kusinārā thời đó họ tẩn liệm kim thân của Đức Thế Tôn như sau, dùng vải mới quấn lại một lớp, rồi họ dùng bông vải quấn lại một lớp, rồi lại dùng vải mới quấn lại một lớp. Cứ như vậy, họ quấn 500 lớp vải. Rồi họ đặt vào cái hòm dầu làm bằng sắt, rồi đậy nắp lại. Nắp hòm cũng bằng sắt. Rồi họ đặt lên giàn hỏa thiêu, giàn hỏa thiêu này set up bằng gỗ trầm, gỗ thơm, và hương liệu cùng hai ngàn ngọc quý.
Rồi thì bốn vị trưởng bối người Malla nghĩ, chúng ta sẽ châm lửa giàn hỏa thiêu. Vậy mà họ không cháy, rồi 8 vị, 16 vị, 32 vị, (chắc là trưng dụng hết ban âm công), cầm hai cây đuốc, quạt bằng lá thốt nốt, thổi bằng bụng, cũng không bắt lửa. Bối rối, họ hỏi ngài Anuruddha. Ngài Anuruddha biết là chư thiên làm như vậy vì chư thiên biết ngài Ca Diếp cùng 500 vị tỳ kheo trên đường về. Chư thiên đó là những vị nào? Tương truyền rằng, đây là những vị học trò cũ của ngài Ca Diếp, những vị từng hộ trì ngài ngày xưa, họ thương ngài lắm, nhờ đó mà họ sanh về trời. Hôm nay trong đại lễ đông đúc này họ không thấy ngài đâu họ suy xét xem sư phụ mình đang ở đâu, họ thấy ngài đang đi trên đường, họ bèn chú nguyện rằng cho đến bao giờ sư phụ chưa về đảnh lễ kim quan thì xin hỏa đài đừng phát lửa. Phải vậy chứ, con chưa về nhìn mặt lần cuối mà, sao hỏa thiêu liền được. Thế là một số chia ra đứng đón, một số ở lại trang hoàng.
Ngài Ca Diếp về, đến ngay nơi giàn hỏa thiêu. Ngài đắp y thượng một bên vai, nhiễu ba vòng quanh giàn hỏa thiêu, quỳ xuống và xác định đôi bàn chân của Đức Phật ở vị trí nào. Ngài đứng cạnh đôi chân Phật, nhập tứ thiền có thần thông, rồi xuất ra và chú nguyện: Xin cho hai bàn chân có tô điểm ngàn căm của đấng Thập Lực hãy tách hai những 500 lớp vải, lớp bông vải, lớp hòm vàng, và giàn hỏa thiêu bằng gỗ trầm hương rồi đặt lên trên đỉnh đầu của con. Do tâm chú nguyện, hai bàn chân Phật đã tách ra và đưa ra ngoài, giống như ánh trăng tròn hiện ra từ đám mây dày đặc. Ngài Ca Diếp đưa hai bàn tay lên như đóa sen nở nắm chặt đến tận mắt cá hai bàn chân có màu vàng chói của đấng Đạo Sư, rồi đặt lên đỉnh đầu của mình. Cả đám đông xung quanh rùng rùng đảnh lễ. Sau đó hai bàn chân Phật rời khỏi đôi tay của ngài Ca Diếp và mọi thứ trở về y nguyên như cũ, không một giọt dầu, hay bông vải hay mẩu gỗ nào rơi ra. Hai bàn chân biến mất giống như mặt trăng, mặt trời đã lặn xuống. Đại chúng khóc lớn. Không có gì ngạc nhiên về điều này. Nếu ai từng chứng kiến những thời khắc mà người qua đời không nhắm mắt, đợi đứa con trở về, thì mới hiểu cảm xúc này. Khi người con vuốt mắt, người mẹ hay người cha nhắm lại, đó là một dấu chỉ của sự chờ đợi, sự giao cảm, sự giao tiếp cuối cùng giữa người thân yêu. Xúc động lắm, chỉ có khóc thôi. Rồi chư thiên phát hỏa. Toàn bộ cháy khắp một lượt. Ngoài xá lợi thì không còn gì kể cả bụi than. Xá lợi giống như nụ hoa nhài, như hạt ngọc trai trong suốt, và trông như vàng.
Các vua xứ Malla trang hoàng ngôi bảo điện ôi thôi là lộng lẫy, hoa đăng, hương thơm, băng rôn, biểu ngữ, dựng cờ hoành tráng trên các con đường v.v... Trong khi làm lễ hội như vậy họ tiến về trung tâm thành phố, và bố trí xung quanh một do-tuần là các tinh binh giáo mác trong tay, xe ngựa, cung tên trang bị sẵn sàng hết.
Vua A-Xà-Thế nghe tin Thế Tôn niết-bàn là xỉu ba lần. Các quan đại thần biết vua thương Thế Tôn nên sẽ sốc lắm, trước khi cho vua hay tin, họ xin vua nằm trong chiếc hòm chứa mật ong ấm chỉ chừa lỗ mũi. Vua xỉu một phát, mật ong tiết ra hơi ấm làm vua tỉnh lại. Họ cho vua nằm trong chiếc hòm thứ hai, rồi kể vua nghe, vua xỉu thêm phát nữa. Vua bất tỉnh nhân sự ba lần như vậy. Họ đưa vua ra, tắm rửa, tưới nước lên người. Vua ngồi dậy, tóc tai rũ rượi ướt mèm, vua đưa tay bấu ngực khóc than như người điên. Tưởng tượng xem, giống như trong phim, đầu tóc bù xù bà xà, bước loạng choạng, khóc nức nở, tay đấm ngực… Sau đó, vua ‘lên đồ’, mặc áo choàng thiệt đẹp đến vườn xoài của ông Jivaka, nhìn vào cái chỗ mà Đức Thế Tôn trước đây đã ngồi thuyết giảng khóc tiếp nữa: Ngài mới đó mà giờ Ngài đã đi rồi, đây không phải là sự thật. Khóc một hồi rồi tưởng niệm ân đức của Phật. Nghĩ rằng than vãn chẳng được gì, giờ phải đi đòi xá lợi cái đã. Vua sai sứ giả đến gặp các vị vua xứ Malla, nói rằng, “Đức Thế Tôn dòng dõi Sát Đế Lỵ, ta cũng dòng dõi Sát Đế Lỵ, ta cũng xứng đáng để xây đại bảo tháp cho các xá lợi của Thế Tôn”. Nói thì vậy nhưng vua nghĩ bụng. “Nếu họ trao thì tốt, còn không thì ta sẽ cướp”, (kiểu như không muốn tình cảm thì ta cho thê thảm). Thế rồi đích thân vua tập hợp binh đoàn chuẩn bị động binh.  Các vua xứ khác cũng y chang, đích thân cử binh tới. Các vua xứ Malla thì nói:
-“Đức Thế Tôn viên tịch trong khuôn viên làng của chúng tôi, chúng tôi không có nhắn tin, cũng không có đi rước về, mà chính bậc Đạo sư đã đích thân đến và cho gọi chúng tôi đến. Báu vật tối thượng như thế này phát sanh trong khuôn viên ngôi làng chúng tôi thì chúng tôi cũng không trao ra đâu, nếu là như quí vị, cũng thế mà thôi.”
Thế là họ đấu khẩu với nhau. Nếu chiến trận xảy ra, thì chiến thắng sẽ thuộc về những người ở thành Kusinārā, tại sao, vì chư thiên đã đến đó để tôn vinh xá lợi sẽ yểm trợ họ.
Lúc này ông Bà-la-môn Dona mới xuất hiện trên sân khấu! Ổng nghĩ những vị vua này cãi vả ở nơi Đức Phật viên tịch kỳ quá, ta sẽ làm lắng dịu cuộc gây gổ này. Thế là ổng đứng ở một cái bục cao, và nói, bài phát biểu của ông có tên là “Tiếng rống của Dona”. Mà người ta tranh chấp cãi cọ ồn ào quá đi, ổng nói dài tương đương hai tụng phẩm mà có ai nghe gì đâu. Coi như dứt xong tụng phẩm thứ nhì thì mới có người lao xao: “Nè, hình như là tiếng nói của thầy giáo thọ.”
Hóa ra ông Dona là thầy giáo thọ của họ. Toàn bộ Diêm Phù Đề, người sanh ra ở gia đình danh giá đều là học trò ổng. Nhất tự vi sư mà, dù sao làm ông thầy cũng có tiếng nói. Khi thấy người ta nghe, ông Dona nói: Đức Phật của chúng ta là vị giáo huấn về kham nhẫn, thật là không đẹp mắt khi có sự tranh giành trong việc chia phần xá lợi của bậc Thượng Nhân. Quí vị hãy đoàn kết, hòa hợp. Hãy phân chia thành 8 phần. Hãy để cho các ngôi bảo tháp lan rộng nhiều phương để người đời có được niềm tin vào bậc Hữu Nhãn”. Thế là các vua đồng ý. Và ông Dona cân chia thành 16 phần. Tám nước, mỗi nước 2 phần. Ổng ma lanh dễ sợ, thừa lúc không ai để ý, nhét luôn cái xá lợi răng bên phải vào cái khăn đóng. Nhưng mà thật nhọ cho ổng, Đế Thích nhìn thấy, thuổng luôn một phát.
Ông Dona chia xong, rờ đầu, tìm hổng thấy chiếc răng đâu hết. (Chắc ổng lén lén ra chỗ nào đó giũ cái khăn quá). Mà cũng không dám truy cứu, sợ lộ vụ chôm. Ổng suy nghĩ, Cái cân này cũng được xem là xá lợi, vì nhờ nó mà các xá lợi của đấng Như Lai được đo lường, ta sẽ xây ngôi bảo tháp cho vật này. Thế là ổng xin cái cân vàng, và các vị vua đồng ý cho ổng. Cuối cùng ổng cũng được giải an ủi. Hổng ai biết ổng ăn trộm hết, chỉ có… chúng ta. Hihi.
Chỉ để kể về ông Dona mà viết mỏi tay. Thật ra, Đức Phật set up hết mọi thứ rồi, Ngài chọn Kusinārā để viên tịch vì ba lý do:
- Có cơ hội để kể tích Chuyển Luân Vương Mahāsudassana.
- Gặp mặt người đệ tử cuối cùng là ngài Subhadda.
- Nơi đó có ông Bà-la-môn Doṇa.
“ Lời quê chắp nhặt dông dài”, ai muốn đọc chi tiết thì tìm Kinh Đại Bát Niết Bàn ^^

No comments:

Post a Comment

Sống khôn thác thiêng

“Những gia đình nào mà có con cái hiếu thảo thì những gia đình đó được coi là gia đình [có] Phạm thiên”. Đó là câu trong bài kinh "Ngan...