(Hôm nay ngày giỗ lần thứ 13 của Mợ, 26-2 AL Tân Sửu)
Chiều nay, thấy chút “se da ấm mình” tôi tìm chai dầu và rót nước nóng để xông.
Hơn 20 năm rồi, chai dầu tràm vẫn còn đầy đặn trong tủ. Chai
dầu mợ tôi mang từ ngoài Huế vào cho tôi khi sinh đứa con đầu lòng.
Chồng tôi gọi mẹ anh bằng mợ, tôi cũng gọi mẹ chồng tôi là mợ.
Trùm trong chăn, hương dầu tràm ngan ngát sực lên mũi, tôi
nhớ chi lạ mợ tôi.
Bạn bè nói làm dâu người Huế khó lắm, khổ lắm, tôi thì ngược
lại, tôi hạnh phúc khi có một bà mẹ chồng thật sâu sắc.
Cái đận tôi sinh đứa con đầu lòng, mợ tôi vượt đường dài
trên chuyến xe đò cái thời xe hiếm mà đường sá toàn ổ gà ổ voi, từ Ban Mê Thuột
xuống đến Nha Trang mất hơn nửa ngày để thăm tôi. Vừa xuống xe vào nhà, vào “ổ
đẻ” chưa kịp nhìn cháu nội, mợ tôi đã nhìn thấy thau đồ dưới giường, mợ ôm đi
giặt ngay. Trước đó, mợ đã mua đâu đó cả chục kí ngải cứu phơi khô, mợ cẩn thận
lặt bỏ cọng, chỉ còn lại lá, tự tay may cho con tôi một cái gối nhỏ. Mợ dặn phải
cho bé nằm cái gối này, không bao giờ bị cứt trâu, chốc đầu hoặc sảy, vì lá ngải
cứu rút hết mồ hôi. Nhìn cái gối đường may vụng về, lộm cộm rào rạo lá bên
trong, tôi cũng ngại lắm, nhưng vẫn vâng lời cho cháu gối. Từ đó, mỗi lần người
trong nhà ai đó nựng nịu bé, đều ngửi thấy mùi ngải cứu trên tóc. Cái mùi khó
chịu quen thuộc lại trở thành thân thương cho đến nhiều năm sau, mỗi khi nghe
mùi ngải cứu tôi lại nhớ đến cái lúc đứa con đầu lòng của mình còn nhỏ xíu.
Mỗi lần đi Huế, mợ lại hỏi tôi có thích gì mợ mua cho, tôi đỏng
đảnh: “Mợ mua cho con cái nón bài thơ đi”. Mợ ngạc nhiên hỏi: “Mi có đuội
khôn?” . “Dạ đội chớ”, tôi trả lời. Mợ không tin rằng một đứa đi xe gắn máy, mặc
jupe đi làm lại chịu đội cái nón trên đầu. Tội nghiệp cho mợ, đi chuyến xe đò từ
Huế vào, ngồi ghế xúp mà trên đầu mợ lại phải đội thêm cái nón mua về cho đứa
con dâu là tôi.
Lần nào đi Huế về mợ cũng mua cho tôi dầu tràm, “Để dành mà
xức cho em”. Mợ dặn. Hết đứa thứ nhất rồi đứa thứ hai, dầu tràm có mùi “bà đẻ”
vốn không dễ ưa cho lắm. Nhưng rồi cái
mùi ấy gắn bó hoài với hai đứa con tôi, nó trở thành một mùi thân thương. Tắm,
nhỏ chút dầu tràm. Nấu lá xông, nhỏ vài giọt dầu tràm.
Mỗi năm gần tết, mợ đều đi về Huế. Mồ mả ông bà ngoài đó, mợ
phải về, dù chỉ là về thắp một nén nhang, thăm vài người thân trong giây lát,
phần thời gian còn lại là ngồi trên xe, không xe đò thì xe lửa. Vậy mà năm nào
mợ cũng đi về. Có năm yếu sức không đi được, đi ngang qua ga, mợ thấy người ta
đi tới đi lui, mợ lại thốt lên: “Tau muộn đi quạ mi ơi!”
Những chuyến đi về, mợ mua cho tôi không chỉ dầu tràm, mà
còn mua có ớt bột, tiêu hột, tiêu sọ, bột sắn dây… Tôi lớp ăn lớp cho hàng xóm,
bạn bè cơ quan, mà không hết, vì mợ cứ mua về hoài. Mợ nói để mấy năm cũng
không hư.
Quả thật, những thứ ấy, tôi đã để nhiều năm rồi vẫn không hư
nhưng mợ tôi thì đã ra đi vĩnh viễn… gần
đến lần giỗ thứ hai rồi.
Trong Pháp Cú kinh có phẩm Hoa Hương nói hương thơm người đức
hạnh, ngược gió bay muôn nơi. Những hương thơm mợ tôi để lại, ngược thời gian tồn
tại mãi trong lòng tôi.
12/1/2010
No comments:
Post a Comment