Saturday, April 17, 2021
THẾ HỆ TƯƠNG LAI
ĐƯỜNG EM CỨ ĐI
Luôn tha thứ, nhưng đừng quên rút kinh nghiệm sâu sắc.
Ai rồi cũng khác. Cái gì rồi cũng hoại diệt. Dòng bộc lưu vẫn cứ cuốn.
Wednesday, April 14, 2021
PHẠM GIỚI LÀ TỰ CHẶT ĐỨT CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT CỦA MÌNH
Vị tỳ kheo có 227 giới, trong đó có 17 trọng giới đầu được xem là quan trọng nhất. Trong 17 trọng giới đó, bốn trọng giới đầu tiên mà vi phạm rồi thì không còn là tỳ kheo nữa. Mười ba trọng giới tiếp theo thì vị tỳ kheo coi như chỉ còn có mấy chục phần trăm giới phẩm thôi, phải trải qua một số tăng sự mới có thể phục hồi giới phẩm như cũ. Các giới còn lại thì những vi phạm chỉ vừa đủ chỉ làm cho đương sự bị đốt nóng, tâm lý bất an (saṃkiliṭṭha āpatti). Riêng bốn trọng giới đầu thì ‘pārājika’ (thua cuộc, bại trận). Một người lính mà bại trận thì đồng nghĩa với cái chết. Một vị tỳ kheo mắc vào bốn đại trọng giới này thì coi như không còn là tỳ kheo nữa.
Friday, April 9, 2021
THUỐC XỔ CỦA THÁNH NHÂN
Một số bệnh nhất định được chữa khỏi bằng cách sử dụng thuốc xổ. Thuốc của thế gian có khi công hiệu, có khi không. Nhưng có một loại thuốc xổ của thánh nhân có thể tẩy sạch được sanh, lão, bệnh, tử, sầu, bi, khổ, ưu, não. Đó là:
Bằng cách này họ sẽ tự tẩy sạch những điều bất thiện đáng kể và giúp cho họ có thể được an lạc, giải thoát không còn sanh tử nữa. )
KINH Y THUẬT
Các y sư, này các Tỷ-kheo, cho thuốc xổ để chận đứng các bệnh khởi lên từ mật, để chận đứng các bệnh khởi lên từ đàm, để chận đứng các bệnh khởi lên từ gió. Này các Tỷ-kheo, đây chỉ là thuốc xổ. Ta tuyên bố rằng đây không phải là không có, và này các Tỷ-kheo, thuốc xổ này có thành công và cũng có thất bại. Và này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết về thuốc xổ các bậc Thánh, thuốc xổ này thành công, không có thất bại. Do nhân thuốc xổ này nên các chúng sanh bị sanh được giải thoát khỏi sanh; các chúng sanh bị già được giải thoát khỏi già, các chúng sanh bị chết được giải thoát khỏi chết; các chúng sanh bị sầu, bi, khổ, ưu, não được giải thoát khỏi sầu, bi, khổ, ưu, não. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.
—Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
Này các Tỷ-kheo, thế nào là thuốc xổ bậc Thánh, thuốc xổ này thành công, không có thất bại. Do duyên thuốc xổ bậc Thánh này nên các chúng sanh bị sanh được giải thoát khỏi sanh… các chúng sanh bị sầu, bi, khổ, ưu, não được giải thoát khỏi sầu, bi, khổ, ưu, não?
Với người có chánh kiến, này các Tỷ-kheo, tà kiến bị xổ ra. Các ác bất thiện pháp do duyên tà kiến sanh khởi nên các pháp ấy được xổ ra và các pháp thiện do duyên với chánh kiến đi đến viên mãn trong tu tập. Với người có chánh tư duy, này các Tỷ-kheo, tà tư duy bị xổ ra… Với người có chánh ngữ, này các Tỷ-kheo, tà ngữ bị xổ ra… Với người có chánh nghiệp, này các Tỷ-kheo, tà nghiệp bị xổ ra… Với người có chánh mạng, này các Tỷ-kheo, tà mạng bị xổ ra… Với người có chánh tinh tấn, này các Tỷ-kheo, tà tinh tấn bị xổ ra… Với người có chánh niệm, này các Tỷ-kheo, tà niệm bị xổ ra… Với người có chánh định, này các Tỷ-kheo, tà định bị xổ ra… Với người có chánh trí, này các Tỷ-kheo, tà trí bị xổ ra… Với người có chánh giải thoát, này các Tỷ-kheo, tà giải thoát bị xổ ra… Các pháp ác bất thiện, do duyên tà giải thoát sanh khởi, các pháp ấy bị xổ ra và các pháp thiện, duyên với chánh giải thoát đi đến viên mãn trong tu tập.
Này các Tỷ-kheo, đây là thuốc xổ bậc Thánh, thuốc xổ này chỉ thành công, không thất bại. Do nhân thuốc xổ này nên các chúng sanh bị sanh được giải thoát khỏi sanh; các chúng sanh bị già được giải thoát khỏi già, các chúng sanh bị chết được giải thoát khỏi chết; các chúng sanh bị sầu, bi, khổ, ưu, não được giải thoát khỏi sầu, bi, khổ, ưu, não.
108. Tikicchakasutta
“Tikicchakā, bhikkhave, virecanaṁ denti pittasamuṭṭhānānampi ābādhānaṁ paṭighātāya, semhasamuṭṭhānānampi ābādhānaṁ paṭighātāya, vātasamuṭṭhānānampi ābādhānaṁ paṭighātāya. Atthetaṁ, bhikkhave, virecanaṁ; ‘netaṁ natthī’ti vadāmi. Tañca kho etaṁ, bhikkhave, virecanaṁ sampajjatipi vipajjatipi.
Ahañca kho, bhikkhave, ariyaṁ virecanaṁ desessāmi, yaṁ virecanaṁ sampajjatiyeva no vipajjati, yaṁ virecanaṁ āgamma jātidhammā sattā jātiyā parimuccanti, jarādhammā sattā jarāya parimuccanti, maraṇadhammā sattā maraṇena parimuccanti, sokaparidevadukkhadomanassupāyāsadhammā sattā sokaparidevadukkhadomanassupāyāsehi parimuccanti. Taṁ suṇātha, sādhukaṁ manasi karotha, bhāsissāmī”ti.
“Evaṁ, bhante”ti kho te bhikkhū bhagavato paccassosuṁ. Bhagavā etadavoca:
“Katamañca taṁ, bhikkhave, ariyaṁ virecanaṁ, yaṁ virecanaṁ sampajjatiyeva no vipajjati, yaṁ virecanaṁ āgamma jātidhammā sattā jātiyā parimuccanti, jarādhammā sattā jarāya parimuccanti, maraṇadhammā sattā maraṇena parimuccanti, sokaparidevadukkhadomanassupāyāsadhammā sattā sokaparidevadukkhadomanassupāyāsehi parimuccanti?
Sammādiṭṭhikassa, bhikkhave, micchādiṭṭhi virittā hoti; ye ca micchādiṭṭhipaccayā aneke pāpakā akusalā dhammā sambhavanti te cassa virittā honti; sammādiṭṭhipaccayā ca aneke kusalā dhammā bhāvanāpāripūriṁ gacchanti.
Sammāsaṅkappassa, bhikkhave, micchāsaṅkappo viritto hoti …pe… sammāvācassa, bhikkhave, micchāvācā virittā hoti … sammākammantassa, bhikkhave, micchākammanto viritto hoti … sammāājīvassa, bhikkhave, micchāājīvo viritto hoti … sammāvāyāmassa, bhikkhave, micchāvāyāmo viritto hoti … sammāsatissa, bhikkhave, micchāsati virittā hoti … sammāsamādhissa, bhikkhave, micchāsamādhi viritto hoti … sammāñāṇissa, bhikkhave, micchāñāṇaṁ virittaṁ hoti …pe….
Sammāvimuttissa, bhikkhave, micchāvimutti virittā hoti; ye ca micchāvimuttipaccayā aneke pāpakā akusalā dhammā sambhavanti te cassa virittā honti; sammāvimuttipaccayā ca aneke kusalā dhammā bhāvanāpāripūriṁ gacchanti. Idaṁ kho taṁ, bhikkhave, ariyaṁ virecanaṁ yaṁ virecanaṁ sampajjatiyeva no vipajjati, yaṁ virecanaṁ āgamma jātidhammā sattā jātiyā parimuccanti …pe… sokaparidevadukkhadomanassupāyāsehi parimuccantī”ti.
Aṭṭhamaṁ.
Tuesday, April 6, 2021
HƯƠNG… MỢ TÔI
(Hôm nay ngày giỗ lần thứ 13 của Mợ, 26-2 AL Tân Sửu)
Chiều nay, thấy chút “se da ấm mình” tôi tìm chai dầu và rót nước nóng để xông.
Hơn 20 năm rồi, chai dầu tràm vẫn còn đầy đặn trong tủ. Chai
dầu mợ tôi mang từ ngoài Huế vào cho tôi khi sinh đứa con đầu lòng.
Chồng tôi gọi mẹ anh bằng mợ, tôi cũng gọi mẹ chồng tôi là mợ.
Trùm trong chăn, hương dầu tràm ngan ngát sực lên mũi, tôi
nhớ chi lạ mợ tôi.
Bạn bè nói làm dâu người Huế khó lắm, khổ lắm, tôi thì ngược
lại, tôi hạnh phúc khi có một bà mẹ chồng thật sâu sắc.
Cái đận tôi sinh đứa con đầu lòng, mợ tôi vượt đường dài
trên chuyến xe đò cái thời xe hiếm mà đường sá toàn ổ gà ổ voi, từ Ban Mê Thuột
xuống đến Nha Trang mất hơn nửa ngày để thăm tôi. Vừa xuống xe vào nhà, vào “ổ
đẻ” chưa kịp nhìn cháu nội, mợ tôi đã nhìn thấy thau đồ dưới giường, mợ ôm đi
giặt ngay. Trước đó, mợ đã mua đâu đó cả chục kí ngải cứu phơi khô, mợ cẩn thận
lặt bỏ cọng, chỉ còn lại lá, tự tay may cho con tôi một cái gối nhỏ. Mợ dặn phải
cho bé nằm cái gối này, không bao giờ bị cứt trâu, chốc đầu hoặc sảy, vì lá ngải
cứu rút hết mồ hôi. Nhìn cái gối đường may vụng về, lộm cộm rào rạo lá bên
trong, tôi cũng ngại lắm, nhưng vẫn vâng lời cho cháu gối. Từ đó, mỗi lần người
trong nhà ai đó nựng nịu bé, đều ngửi thấy mùi ngải cứu trên tóc. Cái mùi khó
chịu quen thuộc lại trở thành thân thương cho đến nhiều năm sau, mỗi khi nghe
mùi ngải cứu tôi lại nhớ đến cái lúc đứa con đầu lòng của mình còn nhỏ xíu.
Mỗi lần đi Huế, mợ lại hỏi tôi có thích gì mợ mua cho, tôi đỏng
đảnh: “Mợ mua cho con cái nón bài thơ đi”. Mợ ngạc nhiên hỏi: “Mi có đuội
khôn?” . “Dạ đội chớ”, tôi trả lời. Mợ không tin rằng một đứa đi xe gắn máy, mặc
jupe đi làm lại chịu đội cái nón trên đầu. Tội nghiệp cho mợ, đi chuyến xe đò từ
Huế vào, ngồi ghế xúp mà trên đầu mợ lại phải đội thêm cái nón mua về cho đứa
con dâu là tôi.
Lần nào đi Huế về mợ cũng mua cho tôi dầu tràm, “Để dành mà
xức cho em”. Mợ dặn. Hết đứa thứ nhất rồi đứa thứ hai, dầu tràm có mùi “bà đẻ”
vốn không dễ ưa cho lắm. Nhưng rồi cái
mùi ấy gắn bó hoài với hai đứa con tôi, nó trở thành một mùi thân thương. Tắm,
nhỏ chút dầu tràm. Nấu lá xông, nhỏ vài giọt dầu tràm.
Mỗi năm gần tết, mợ đều đi về Huế. Mồ mả ông bà ngoài đó, mợ
phải về, dù chỉ là về thắp một nén nhang, thăm vài người thân trong giây lát,
phần thời gian còn lại là ngồi trên xe, không xe đò thì xe lửa. Vậy mà năm nào
mợ cũng đi về. Có năm yếu sức không đi được, đi ngang qua ga, mợ thấy người ta
đi tới đi lui, mợ lại thốt lên: “Tau muộn đi quạ mi ơi!”
Những chuyến đi về, mợ mua cho tôi không chỉ dầu tràm, mà
còn mua có ớt bột, tiêu hột, tiêu sọ, bột sắn dây… Tôi lớp ăn lớp cho hàng xóm,
bạn bè cơ quan, mà không hết, vì mợ cứ mua về hoài. Mợ nói để mấy năm cũng
không hư.
Quả thật, những thứ ấy, tôi đã để nhiều năm rồi vẫn không hư
nhưng mợ tôi thì đã ra đi vĩnh viễn… gần
đến lần giỗ thứ hai rồi.
Trong Pháp Cú kinh có phẩm Hoa Hương nói hương thơm người đức
hạnh, ngược gió bay muôn nơi. Những hương thơm mợ tôi để lại, ngược thời gian tồn
tại mãi trong lòng tôi.
12/1/2010
DẦU TRÀM HỎI QUÀI
ĐI TU
Một người bạn lâu ngày gặp lại, (gặp trên điện thoại), sau khi hàn huyên, hỏi thăm mẹ bạn, mới hay mẹ bạn đã xuất gia. Hỏi thăm về đời sống xuất gia của bà như thế nào khi đã vào hàng cổ lai hy, bạn kể, mẹ bạn vào ở một Tịnh xá (gì đó quên tên rồi).

Saturday, April 3, 2021
VỀ ÔNG DONA
(Donabrāhmanasutta)
CẢNH BÁO VỀ SẸO ÁC QUỶ
Bắt đầu từ đầu tháng 1 đến giữa tháng 3 năm 2013.
Trung tâm trị liệu đau nhức của chúng tôi nhận điều trị sẹo mổ đẻ sau khi sinh
con cho 21 bệnh nhân. Tất cả những ca bệnh này đều do tôi phụ trách.
https://lethuannghia.com/canh-bao-ve-seo-ac-quy-tu-lieu-y-khoa/
DUTY FREE
Trên triền núi Himalaya có một bộ tộc sống bằng nghề săn bắt khỉ. Họ làm cái bẫy như cái hộp để thức ăn trong đó, và khoét cái lỗ bằng bàn tay của khỉ. Họ bỏ vào đó những thức ăn mà con khỉ thích. Họ thò tay lấy thức ăn ra, giả vờ ăn cho khỉ thấy để bắt chước. Rồi họ lánh đi. Khi những con khỉ thò tay vào đó, họ xuất hiện. Con người mình khi thò tay vào cần rút tay ra chỉ việc xuôi tay, nhưng con khỉ không đủ khôn ngoan để biết điều đó. Khi nó hốt một nắm to thức ăn thì nó không thể rút tay ra vì nó không chịu thả thức ăn ra. Đức Phật nói kẻ phàm phu không biết thoát thân trong dòng sinh tử khi bàn tay họ cứ nắm chặt như đám khỉ ngu khờ trong Himalaya. Ngày xưa tôi có đọc câu chuyện ngắn “Chuột thành phố” của Tô Hoài. Một ngày kia con chuột nhà đi chơi gặp con chuột phố ốm nhách suy dinh dưỡng, chuột nhà rủ chuột phố về nhà để có thức ăn, khỏi đi lang thang bị mèo giết, cũng không phải giành thức ăn với lũ chuột hoang. Nhà có hũ mứt, chuột nhà dặn chuột phố ăn chỉ vừa đủ thôi vì cái lỗ này nhỏ, nếu ăn no thì chui ra không được. Con chuột kia đói quá, càng ăn càng lớn, cuối cùng ra không được. Câu chuyện này gợi ý cho mình là nên vừa chừng thôi. Muốn thoát thân tu hành thì phải buông bớt, bàn tay nắm hoài sao thoát, bụng chứa nhiều quá sao thoát. Trong giờ cận tử, giây phút quyết liệt nhất trong đời của mình, nếu lúc đó mình tỉnh táo thì còn đỡ đỡ một chút, chớ nếu tâm thức đang chập chờn thì lúc đó mình trở về với đơn vị gốc của mình. Bình thường mình nóng tánh, tham lam, cố chấp thì lúc đó là lúc tất cả những tánh xấu đó đổ về trước mặt mình. Ví dụ như lúc đó mình nghe ngứa quá mà không biết làm sao nhờ gãi, tay bắt cánh chuồn rồi mà, đâu có nói được nữa; nếu bình thường mình có khả năng chịu đựng thì không sao, còn bình thường sống sướng quen, hò hét như vua, có tiền bạc, có kẻ hầu người hạ, nhờ là người ta làm, bây giờ trong lúc đó nhờ không được, đâm bực. Hoặc trong cơn ảo giác cận tử mình sẽ thấy nhiều cái mà bình thường mình rất là thích như chơi tem, chơi xe, vòng vàng nữ trang, thích ăn ngon, thích món này món nọ, lúc đó có thể nó sẽ xuất hiện ảo giác. Những lúc đó nếu mình không biết buông, cứ ôm lấy thì tâm mình sẽ dính chặt vào đó, nếu ghét thì sẽ ra đi với tâm sân hận. Hoặc giống như có lần mình nằm mơ thấy mình mua hay ai đó mới cho mình cái gì đó thiệt là thích, chưa enjoy hết mình thì đã giựt mình vì tiếng động thấy ghét nào đó. Phải nghĩ là bây giờ bong bóng sắp vỡ rồi, bọt xà phòng sắp tan rồi, hoặc nắm cát sắp được tung ra rồi, phải nghĩ như vậy thì bớt sợ; hơn là nghĩ mình sắp gặp tai nạn, sắp xa người thân yêu, nghĩ vậy dễ sợ lắm. Đừng nói tôi nói chuyện trên mây, bây giờ không nhớ tôi đâu, lúc đó mới thấy nhớ tới tôi, nhớ ông sư từng nói, khi ngặt nghèo này là phải buông, phải nghĩ rằng mình chỉ là một nắm cát, mình chỉ là một cái bọt xà phòng. Bất cứ là ai đi nữa mà trên sáu mươi tuổi rồi mà vẫn còn dính chặt vào tiền, thích đếm tiền, nặng về tình thân, nặng về quan hệ bè bạn kiểu ái luyến gia tộc quyến thuộc, hoặc tệ hơn nữa là còn thích làm đẹp, còn mê quyền lực không nghĩ đến chuyện buông bỏ là tôi ngại giùm rồi. Cỡ tuổi đó đã muộn lắm lắm lắm rồi. Tôi biết nói như vậy có nhiều người rất là phiền, họ sẽ nói rằng nói như vậy như có vẻ chống lại lịch sử văn minh nhân loại, tuổi già thì phải được an ủi là nhờ con cháu quây quần. Nghĩ như vậy là nghĩ theo kiểu lối mòn, chứ theo tinh thần nhà Phật thì càng buông bỏ là càng nhẹ. Trách nhiệm không phải là gánh nặng. Duty khác với burden. Ngoài phi trường quí vị thấy người ta ghi chữ duty-free thì ‘duty’ này rất nhẹ. Nếu không duty-free thì khi mua mình phải đóng thuế. Tôi nhìn chữ đó tôi khó chịu. Tôi nghĩ như trường hợp mẹ phải lo cho con, con phải lo cho ba mẹ, nghĩ vậy là hơi ngán rồi đó, không làm thì không được; còn cái kia mình không đóng thuế thì đừng có mua. Theo tôi thì mình đừng đồng hóa trách nhiệm với gánh nặng. Có người cũng lo cho gia đình nhưng luôn luôn trong tình trạng tâm lý sẵn sàng ra đi.

THỜI GIAN ĂN SẠCH MỌI THỨ, ĂN LUÔN CẢ CHÍNH NÓ.
Thầy nói:
- Cái gì ta biết các con cũng biết, cho nên mình không có gì khác nhau hết. Có điều bữa nay ta có một câu hỏi muốn hỏi các con, coi như đây là kiến thức sau cùng mà ta muốn trao lại cho các con và giữa các con và ta không còn cái gì khác nữa hết.
Rồi ông thầy đọc một bài kệ:
Kalo ghasati bhutani
sabbaneva sahattana
yo ca kalaghaso bhuto
sa bhutapacanim paci.
Kalo ghasati bhutani: thời gian ăn sạch mọi thứ ở đời, ăn sạch tất cả chúng sanh trong đời.
sabbaneva sahattana: chẳng những ăn chúng sanh, nó ăn luôn mọi thứ ngoài chúng sanh, và sahattana, ăn luôn cả chính nó.
yo ca kalaghaso bhuto: ai là người ăn được thời gian?
sa bhutapacanim paci: và kẻ nào ăn được thời gian, và đốt cháy được cái đốt cháy chúng sanh.
Xưa nay mình nghe được là lửa đốt cháy mọi thứ, vậy mà có cái đốt cả lửa nữa, nghe có kỳ hông. Lửa đốt hết mọi thứ, vậy cái gì đốt luôn lửa, thay vì làm tắt lửa?
Ông thầy đọc bài kệ rồi nói học trò trả lời. Chú giải nói các học trò gồm 500 người, dassati visatiti sampiṇḍita , dasa: 10, visati: 20, dassati visatiti sampiṇḍita dịch sát tiếng Việt là tụ năm tụ ba chia thành từng nhóm (nhóm 10 người, 20 người) bàn bạc với nhau câu hỏi đó mà không ra đáp án cho câu:
“Thời gian ăn sạch mọi thứ ở đời, ăn luôn cả chính nó. Ai là người ăn được cả thời gian, và đốt được cái ngọn lửa vẫn đốt lấy muôn loài.”
Cuối cùng họ kéo nhau tới gặp sư phụ:
- Tụi con chịu thua, câu này kỳ quá, kỳ trong từ ngữ và kỳ trong ý tưởng.
Thầy giải thích:
Kalo ghasati bhutani, thời gian ăn sạch sinh mệnh của muôn loài, cái này chắc các con hiểu. Từ con giun con dế hay con voi con cá nhà táng, cho tới một đứa bé mới phôi vài tuần cũng phải chết. Sống được trăm tuổi hay ngàn tuổi gì cũng phải chết.
Sabbaneva, chẳng những vậy, nó ăn luôn mọi thứ khác ngoài chúng sanh, cây cỏ sông rạch nhà cửa núi con, theo năm tháng cái gì cũng biến diệt, cũng thay đổi hết. Nhưng, sahattana, nó ăn luôn chính nó, nghĩa là trải qua bốn mùa xuân hạ thu đông, đến mùa hạ thì mùa xuân không còn nữa, đến mùa thu thì mùa hạ không còn nữa. Chính thời gian giết thời gian là chỗ đó. Chưa hết, thời gian của hơi thở vào kết thúc ở thời gian của hơi thở ra, thời gian của hơi thở sau kết thúc thời gian của hơi thở trước. Chính thời gian giết thời gian là chỗ đó, nó ăn muôn loài và ăn chính nó. Thời gian sau xóa thời gian trước. Nhưng hai câu sau mới chua.
yo ca kalaghaso bhuto,
Ai là người ăn được thời gian? Ông thầy là người có học Phật pháp, học trò thì không học. Trong Chú giải giải thích, chính vị A-la-hán là người ‘kalaghaso’ -- người ăn được thời gian. Nghĩa là vị đó không còn tiếp tục nữa. Mọi thứ kết thúc ngay sau sát-na Tâm-viên-tịch. Mình thì còn có sớm có muộn, có lâu có mau, có xuân hạ thu đông, nhưng đối với một người đã viên tịch niết-bàn thì làm gì còn sớm muộn nhanh chậm, xuân hạ thu đông. Cho nên, thời gian nuốt sạch mọi thứ nhưng riêng vị A-la-hán thì ăn luôn thời gian đó.
sa bhutapacanim paci.
Chính vị A-la-hán là đốt sạch ngọn lửa đã đốt chúng sanh. Ngọn lửa đốt chúng sanh chính là ngọn lửa tham ái, vị A-la-hán là người đốt được tham ái. Vị đó có ngọn lửa đốt luôn được lửa (lửa trí tuệ, lửa thánh đạo đốt lửa tham ái). Bài kệ nghĩa như vậy. Thời gian ăn sạch mọi thứ ở đời, ăn luôn cả chính nó. Ai là người ăn được cả thời gian, và đốt được cái ngọn lửa vẫn đốt lấy muôn loài. 500 vị học trò chỉ học Tam Vệ Đà của Bà-la-môn nên làm sao biết được ý nghĩa của câu kệ này. Lúc đó học trò mới thấy thì ra cái biết của mình chẳng là gì so với ông thầy hết. Người hiểu được câu kệ này là hiểu được bao nhiêu chuyện liên quan với nó nữa mà xưa giờ mình không được biết. Hồi đó đến giờ mình chỉ là kiến bò miệng chén thôi.
#NKCBK
THỜI GIAN ĂN HỮU TÌNH
Câu chuyện này, khi ở rừng Subhaga gần Ukkatthà, bậc Ðạo Sư kể về kinh Mùlapariyàya.
Nghe nói lúc bấy giờ có năm trăm Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà, đã xuất gia trong Giáo pháp, đã học Ba Tạng kinh điển và sanh lòng ngã mạn.
Họ suy nghĩ "Bậc Chánh Ðẳng Giác biết Ba tạng Kinh điển, chúng ta và bậc Chánh Ðẳng Giác nào có khác gì? Họ không đi đến hầu Thế Tôn, và họ sống với một hội chúng đệ tử ngang bằng hội chúng của bậc Ðạo Sư.
Một hôm, bậc Ðạo Sư đi đến gặp họ, và khi họ đã ngồi gần mình, bậc Ðạo Sư Thuyết Kinh Căn bản pháp môn và tô điểm thêm tám thứ bậc tu chứng. Họ không hiểu được một lời gì. Trước kia, họ kiêu mạn nghĩ rằng không có bậc hiền trí nào bằng họ. Nay đứng trước mặt Phật, họ thấy họ không hiểu một tí gì. Họ tự bảo: "Thật không có ai hiền trí như chư Phật. Ôi công đức chư Phật thật tối thắng!"
Từ đấy trở đi, họ không còn kiêu mạn, trở thành hiền lành như rắn bị rút nanh.
Bậc Ðạo Sư trú ở Ukkatthà cho đến khi thỏa thích, rồi đi Vesàli, đến điện thờ Gotama và giảng Kinh Gotama. Cả ngàn thế giới đều rung động! Khi nghe kinh ấy xong, các Tỷ-kheo nầy trở thành các vị A-la-hán.
Nhưng khi bậc Ðạo Sư giảng xong Kinh Căn bản pháp môn và trú ở Ukkatthà, các Tỷ-kheo hội họp tại Chánh pháp đường, bắt đầu nói chuyện như sau:
- Thưa các Hiền giả, ôi uy lực của đức Phật thật vĩ đại. Các du sĩ Bà-la-môn ấy thường vẫn kiêu mạn tự đắc như vậy, nay đã diệt trừ kiêu mạn nhờ bài thuyết pháp về Căn bản pháp môn của Thế Tôn.
Bậc Ðạo Sư đến tại Pháp đường và hỏi:
- Này các Tỷ-kheo, các ông hội họp ở đây đang bàn luận vấn đề gì?
Khi biết vấn đề trên, bậc Ðạo Sư nói:
- Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay mới như vậy. Thuở xưa những người này sống vói đầy giương cao tự đại, ta cũng đã nhiếp phục lòng kiêu mạn của họ.
Rồi bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.
*
Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vị ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài tinh thông ba tập Vệ-đà, trở thành bậc sư trưởng có danh tiếng nhiều phương và giảng dạy chú thần cho năm trăm thanh niên Bà-la-môn. Năm trăm thanh niên ấy chú tâm học tập cho đến thành tựu viên mãn, rồi lòng kiêu mạn khởi lên, họ tự nghĩ: "Chúng ta hiểu biết chừng nào, vị sư trưởng cũng hiểu chừng ấy thôi. Không có gì khác."
Vì vậy họ không đi đến hầu sư trưởng, cũng không làm các bổn phận đối với sư trưởng.
Một hôm, họ thấy sư trưởng ngồi dưới gốc cây táo; muốn nhạo báng sư trưởng, họ lấy móng tay gõ vào cây táo và nói:
- Cây này thật sự không có lõi!
Bồ-tát biết họ nhạo báng mình, liền nói:
- Này các đệ tử, ta sẽ hỏi các anh một câu.
Họ thích thú nói:
- Hãy nói lên, chúng tôi sẽ trả lời.
Sư trưởng hỏi bằng cách đọc bài kệ đầu:
Thời gian ăn hữu tình,
Ăn tất cả, ăn mình,
Ai là hữu tình ấy
Ăn cả đến thời gian,
Ai là người nấu chín
Thời gian nấu hữu tình?
Nghe câu hỏi này, không một ai trong đám thanh niên Bà-la-môn có thể hiểu được. Rồi Bồ-tát nói với chúng:
- Chớ tưởng rằng câu hỏi này nằm trong ba tập Vệ-đà! Các anh tưởng rằng mình biết tất cả mọi điều ta biết. Các anh hành động giống như cây táo. Các anh không biết rằng ta biết được nhiều hơn mọi điều các anh biết. Hãy đi đi! Ta cho các anh bảy ngày. Hãy nghiền ngẫm câu hỏi này suốt thời gian ấy.
Họ đảnh lễ Bồ-tát, rồi đi về nhà của mình. Họ suy nghĩ suốt bảy ngày, nhưng cuối cùng không giải quyết được câu hỏi. Sau bảy ngày, họ đi đến gặp sư trưởng, đảnh lễ và ngồi xuống một bên. Sư trưởng hỏi:
- Này các đệ tử với mặt mày hiền thiện kia, các anh có đáp câu hỏi ấy được không?
Họ trả lời:
- Thưa không, chúng tôi không biết.
Rồi Bồ-tát quở trách họ với bài kệ thứ hai:
Loài người có nhiều đầu,
Trên đầu tóc mọc lên,
Ðầu dính lên trên cổ,
Bao nhiêu đầu có tai?
Bồ-tát tiếp tục chê trách các thanh niên Bà-la-môn ấy:
- Các anh là người ngu si, tai của các anh chỉ có lỗ chứ không có trí tuệ.
Sau đó, Bồ-tát trả lời câu hỏi. Nghe xong, họ nói:
- Ôi, Sư trưởng thật vĩ đại thay!
Họ liền xin lỗi, rồi nhiếp phục lòng kiêu mạn và hầu hạ Bồ-tát.
*
Khi bậc Ðạo Sư thuyết Pháp thoại này xong, Ngài nhận diện Tiền thân:
- Lúc bấy giờ năm trăm thanh niên Bà-la-môn là những Tỷ-kheo này, còn vị sư trưởng là Ta vậy.
(Mulapariyaya Jataka)
https://www.tamtangpaliviet.net/VHoc/32/32-02b.htm
Sống khôn thác thiêng
“Những gia đình nào mà có con cái hiếu thảo thì những gia đình đó được coi là gia đình [có] Phạm thiên”. Đó là câu trong bài kinh "Ngan...
-
Nhặt một tấm hình cũ của hai chị em, nhờ AI sửa giúp. Thật khó nhận ra mình ngày ấy mà chị Phương Thảo nhìn hình thì nói vẫn nhớ những nét c...
-
“Những gia đình nào mà có con cái hiếu thảo thì những gia đình đó được coi là gia đình [có] Phạm thiên”. Đó là câu trong bài kinh "Ngan...