Thursday, December 29, 2022

Wednesday, December 28, 2022

Tuổi nào ghi dấu chân chim qua trời?

Một ngày tưới cây bỗng nhớ một câu hát của Trịnh Công Sơn:

Tuổi nào nhìn lá vàng úa chiều nay
Tuổi nào ghi dấu chân chim qua trời.

Câu hát vừa băng ngang đầu bỗng chợt nhớ Subhadda. Đó là một du sĩ ngoại đạo, vào đêm cuối cùng khi Đức Phật sắp viên tịch đã nghĩ rằng một con người vĩ đại một con người hy hữu có một không hai sắp từ giã cõi đời, nên vội vã cố vào tìm gặp để xin giải đáp một nghi vấn vừa khởi lên.

Trong kinh có nói hai ông tên là Subhadda. Một ông là đệ tử đã xuất gia khi lớn tuổi, trong đoàn tỳ kheo tùy tùng ngài Ca Diếp trên đường về Kusinara, nghe tin Đức Phật viên tịch và chung quanh khóc thương đã nói rằng khóc mà chi từ nay chúng ta được thoát khỏi hoàn toàn vị Ðại Sa-môn ấy, không bị phiền bởi những câu "Làm như thế này không hợp với các ngươi, làm như thế này hợp với các ngươi; nay thì muốn làm gì thì làm, không muốn làm thì không làm…

Khi du sĩ ngoại đạo Subhadda vào xin gặp Phật, ngài Ānanda chặn lại không cho. Phật mệt lắm rồi, thôi đừng làm phiền nữa. Ba lần xin gặp ngài Ānanda đều ngăn lại. Đức Phật nói ngài Ānanda cho vào vì biết rằng đây là một người đến để hỏi đạo chớ không phải làm phiền. Ngoại đạo Subhadda vào chúc tụng hỏi thăm xã giao rồi nêu tên những vị giáo chủ, khai tổ các giáo phái tiếng tăm và hỏi Phật rằng tất cả những vị này có phải là giác ngộ chưa, hay chưa giác ngộ, hay một số giác ngộ một số chưa, hay tự nhận mình đã giác ngộ.

Hai ngàn năm trăm năm trước cũng giống y hệt giang cư mận chúng ta ngày nay nhỉ. Nhưng vị du sĩ ngoại đạo này hỏi với một tinh thần là để học hỏi chớ không phải để… ném đá.

Và Đức Phật đã nói, thôi nào Subhadda, để chuyện ông nào đắc ông nào chưa đắc qua một bên đi, lắng nghe nè:

Trên hư không không từng có dấu chân chim.
Ngoài bát thánh đạo không có thánh nhân.
Vạn hữu không thể nào có sự vĩnh cửu.
Chư Phật không hề có sự dao động.
(PC 255, Phẩm Phật Đà)
(255. Ākāse padaṃ n’atthi samaṇo n’atthi bāhire, saṅkhārā sassatā n’atthi n’atthi buddhānaṃ iñjitaṃ.)
Sau đó thì du sĩ ngoại đạo Subhadda được xuất gia thọ đại giới với Đức Phật. Đó là vị đệ tử cuối cùng được Ngài tế độ vào phút… 89.

Vậy chuyện câu hát của Trịnh Công Sơn có liên quan gì ông Subhadda? Đó là không biết là Trịnh Công Sơn có nghe qua câu kinh “Trên hư không không từng có dấu chân chim” hay chưa, nhưng chim bay trên trời làm sao mà in dấu chân. Rõ ràng ở đây là một sự “từ bi bất ngờ” của Trịnh Công Sơn khi một ngày nhìn thấy trên khuôn mặt giai nhân nào đó quá trời dấu chân chim!!!

Câu nhạc ấy có lẽ là “tuổi nào ghi dấu chân chim quá trời”, bởi Phật nói trên hư không làm gì có dấu chân chim!
Nhị Tường 29/12/2022 

Friday, December 23, 2022

Cuộc đời ông già Nô-en

1. Tuần trước, bà nói nó hãy ngoan. Ông già Nô-en sẽ cho quà những đứa trẻ ngoan. Thế là nó cứ ngoan, và ngày nào nó cũng hỏi khi nào ông già Nô-en mới cho quà. Bà phải mỏi miệng trả lời là ngày 25. Nó không hình dung được ngày 25 là gì. Bà mở ipad và chỉ cho nó con số ngày tháng.

Nó trông chờ ngày tháng qua mau mà sao ngày tháng qua chậm quá. Ngày nào nó cũng hỏi, bà ơi, khi nào ông già Noel mới cho quà. Hôm kia bà phiền quá bèn dắt nó ra ngoài đường, nơi người ta bán đầy quà trên tấm bạt. Bà nói, lựa đi, ông già Noel đã đưa tiền cho bà để mua quà cho con rồi.

2. Cô giáo nó nói với các cháu hãy viết những điều ước vào tờ giấy. Ông già Noel sẽ mang quà đó đến vào ngày Giáng Sinh. Rồi cô giáo nó dặn mẹ nó hãy mua món quà nó thích, kín đáo mang đến lớp. Sẽ có ông già Nô-en tặng quà cho các cháu.
Mẹ nó mua chiếc đồng hồ báo thức, gói ghém vào trong hộp, rồi lẻn vào lớp nó giao cho cô giáo. Chiều đi học về nó nói:
- Con thấy mẹ đến đưa đồ cho cô. Cô nói, của Khải Như, rồi cô để lên kệ.
Mẹ nó cười ngất. Thôi lộ chuyện của ông già Nô en mất rồi.

3. Chiều nay bà đến trường đón nó. Chợt thấy ông bảo vệ lên tay xuống ngón chuyện gì đó bức xúc lắm với một vài phụ huynh. Mọi khi bà đến là ngồi xuống ghế trước trường chơi game chờ cho đến khi nó ra tìm bà. Hôm nay bà đến chỗ ông bảo vệ. Hôm nay có chuyện gì mà trông ông và các cháu có vẻ long trọng gay cấn vậy. Ông bảo vệ vẫn còn tỏ vẻ ấm ức:
-Hai vợ chồng đó, đi ô tô đó chớ. Mỗi lần tới đây thì chỉ trỏ, nói này nói kia ra vẻ lắm. Mua quà cho con mà mua cái xe hơi chút xíu.(Ông vừa nói vừa chụm ngón tay ra bộ như thể đang cầm cái gì đó to cỡ cái trứng gà). Thằng con nhìn thấy đứa nào cũng hộp quà thiệt to, trong khi quà của nó có chút xíu. Thằng nhỏ khóc.
- Dạ, mắc cười vậy. Mà sao ông có vẻ giận?
- Tui làm ông già Nô-en. Cô hiệu trưởng nhờ tui làm. Cổ nói, mặc bộ đồ vô phát quà một chút cho các cháu nó mừng, chớ thuê người phức tạp. Tui tròng bộ đồ vô phát cho các cháu. Phát cho thằng nhỏ cái xe chút xíu nó cầm nó khóc. Cái cha mẹ nó đi mua cái khác quay lại kêu tui mặc bộ đồ vô để phát lại. Đời nào tui làm chuyện đó.
4. Bà ơi, con có quà ông già Noen cho nè. Khải Như tung tăng chạy xuống tay giơ hộp quà. Vậy hả. Con có biết ông già Nô-en là ai không. Dạ biết chớ. Vậy hả. Ổng như thế nào? Ông già Nô- en kìa bà!
Khải Như giơ tay chỉ ông bảo vệ…

Photo:
-Hình Khải Như mua quà bằng tiền ông già Nô-en đưa cho bà ngoại.



-Cuốn sách của bà ngoại dịch, phát hành cách đây 22 năm vẫn còn mới và chưa hết.




Friday, November 4, 2022

Những bài kinh nói về niết bàn

 


NIỆM NIẾT BÀN

Khi thấy khổ nhân (bị phiền não) hay khổ quả (bị bất toại) cứ suy niệm:

Niết bàn không có như vậy; niết bàn là sự vắng mặt của danh và sắc, của năm uẩn, 12 xứ, 18 giới; niết bàn là sự vắng mặt của nhân và quả; niết bàn không có khổ lạc, niết bàn không có thiện ác. Cách niệm này ngay cả ung thư kỳ cuối tuy không hết bệnh, nhưng giảm đau và giúp ta đủ bình tĩnh để ra đi trong tỉnh táo, thanh thản.


Dưới đây là những bài kinh nói về Niết Bàn

 

NHỮNG BÀI KINH NÓI VỀ NIẾT BÀN

 

DHAMMAPADA  (Kinh Pháp Cú)

202. Natthi rāgasamo aggi,

Natthi dosasamo kali;

Natthi khandhasamā dukkhā,

Natthi santiparaṁ sukhaṁ.

 

 “Lửa nào sánh lửa tham?

Ác nào bằng sân hận?

Khổ nào sánh khổ uẩn,

Lạc nào bằng tịnh lạc.”

 

203. Jighacchāparamā rogā,

saṅkhāraparamā dukhā;

Etaṁ ñatvā yathābhūtaṁ,

nibbānaṁ paramaṁ sukhaṁ.

 

 “Ðói ăn, bệnh tối thượng,

Các hành, khổ tối thượng,

Hiểu như thực là vậy,

Niết Bàn, lạc tối thượng.”

(HT Thích Minh Châu dịch)

 

ITIVUTTAKA 43.  (Phật Thuyết Như Vậy)

AJATASUTTA (KINH KHÔNG SANH)

1. “Atthi bhikkhave, ajātaṃ abhūtaṃ akataṃ asaṅkhataṃ. No ce taṃ bhikkhave, abhavissā ajātaṃ abhūtaṃ akataṃ asaṅkhataṃ, nayidha jātassa bhūtassa katassa saṅkhatassa nissaraṇaṃ paññāyetha. Yasmā ca kho bhikkhave, atthi ajātaṃ abhūtaṃ akataṃ asaṅkhataṃ, tasmā jātassa bhūtassa katassa saṅkhatassa nissaraṇaṃ paññāyatī ”ti.

“Này các tỳ khưu, có cái không sanh—không hiện hữu—không làm ra— không tạo tác. Này các tỳ khưu, nếu không có cái không sanh—không hiện hữu—không làm ra—không tạo tác ấy thì ở đây việc ra khỏi cái sanh—hiện hữu—làm ra—tạo tác không được biết đến. Này các tỳ khưu, bởi vì có cái không sanh—không hiện hữu—không làm ra—không tạo tác, cho nên việc ra khỏi cái sanh—hiện hữu—làm ra—tạo tác được biết đến.”

2. “Jātaṁ bhūtaṁ samuppannaṁ, kataṁ saṅkhatamaddhuvaṁ;

Jarāmaraṇasaṅghāṭaṁ, roganīḷaṁ pabhaṅguraṁ.

Āhāranettippabhavaṁ, nālaṁ tadabhinandituṁ;

 

“Cái sanh—hiện hữu—phát khởi—làm ra—tạo tác là không bền vững, gắn liền với già và chết, cái ổ của bệnh tật, dễ tiêu hoại, có thức ăn và tham ái là nguồn sanh khởi, không xứng đáng để thích thú

 

3. Tassa nissaraṇaṁ santaṁ,  atakkāvacaraṁ dhuvaṁ,

ajātaṁ asamuppannaṁ, asokaṁ virajaṁ padaṁ;

nirodho dukkhadhammānaṁ, saṅkhārūpasamo sukho”ti.

 

 Sự ra khỏi cái ấy là an tịnh, vượt ngoài suy luận, bền vững, không sanh, không phát khởi, không sầu, xa lìa luyến ái, là chỗ tựa, sự tịch diệt các pháp khổ, sự yên lặng các pháp tạo tác, an lạc.”

 

 (Bhikkhu Indacanda dịch)

 

 

ITIVUTTAKA  44.  (Phật Thuyết Như Vậy)

1. “Dvemā, bhikkhave, nibbānadhātuyo. Katamā dve? Saupādisesā ca nibbānadhātu, anupādisesā ca nibbānadhātu.

 “Này các tỳ khưu, đây là hai bản thể của Niết Bàn. Hai bản thể nào? Bản thể Niết bàn còn dư sót và bản thể Niết Bàn không còn dư sót.

2. Katamā ca, bhikkhave, saupādisesā nibbānadhātu? Idha, bhikkhave, bhikkhu arahaṁ hoti khīṇāsavo vusitavā katakaraṇīyo ohitabhāro anuppattasadattho parikkhīṇabhavasaṁyojano sammadaññāvimutto. Tassa tiṭṭhanteva pañcindriyāni yesaṁ avighātattā manāpāmanāpaṁ paccanubhoti, sukhadukkhaṁ paṭisaṁvedeti. Tassa yo rāgakkhayo, dosakkhayo, mohakkhayo—ayaṁ vuccati, bhikkhave, saupādisesā nibbānadhātu.

Và này các tỳ khưu, cái nào là bản thể Niết bàn còn dư sót?

Này các tỳ khưu, ở đây vị tỳ khưu là bậc A-la-hán, có lậu hoặc đã được cạn kiệt, đã được hoàn mãn, có việc cần làm đã làm, có gánh nặng đã được đặt xuống, có mục đích của mình đã được đạt đến, có sự trói buộc ở hữu đã được đoạn tận, đã hiểu biết đúng đắn và đã được giải thoát. Đối với vị ấy, năm giác quan vẫn tồn tại, thông qua trạng thái không bị hủy hoại của chúng vị ấy tiếp nhận đối tượng thích ý hoặc không thích ý, và cảm thọ hạnh phúc hay khổ đau. Cái có cho vị ấy là sự diệt trừ tham, sự diệt trừ sân, sự diệt trừ si. Này các tỳ khưu, cái này gọi là bản thể Niết bàn còn dư sót.

 

3. Katamā ca, bhikkhave, anupādisesā nibbānadhātu?

Idha, bhikkhave, bhikkhu arahaṁ hoti khīṇāsavo vusitavā katakaraṇīyo ohitabhāro anuppattasadattho parikkhīṇabhavasaṁyojano sammadaññāvimutto. Tassa idheva, bhikkhave, sabbavedayitāni anabhinanditāni sīti bhavissanti. Ayaṁ vuccati, bhikkhave, anupādisesā nibbānadhātu. Imā kho, bhikkhave, dve nibbānadhātuyo”ti.

 Và này các tỳ khưu, cái nào là bản thể Niết bàn không còn dư sót?

Này các tỳ khưu, ở đây vị tỳ khưu là bậc A-la-hán, có lậu hoặc đã được cạn kiệt, đã được hoàn mãn, có việc cần làm đã làm, có gánh nặng đã được đặt xuống, có mục đích của mình đã được đạt đến, có sự trói buộc ở hữu đã được đoạn tận, đã hiểu biết đúng đắn và đã được giải thoát. Này các tỳ khưu, đối với vị ấy, ngay ở nơi đây tất cả những gì được cảm thọ là không được thích thú, sẽ trở thành mát lạnh. Này các tỳ khưu, cái này gọi là bản thể Niết bàn không còn dư sót. Này các tỳ khưu, đây là hai bản thể của Niết Bàn.”

 

4. “Duve imā cakkhumatā pakāsitā,

Nibbānadhātū anissitena tādinā;

Ekā hi dhātu idha diṭṭhadhammikā,

Saupādisesā bhavanettisaṅkhayā;

Anupādisesā pana samparāyikā,

Yamhi nirujjhanti bhavāni sabbaso.

 

“Hai bản thể Niết bàn này đã được giảng giải bởi đấng Hữu Nhãn, bậc không bị lệ thuộc, bậc tự tại: Một bản thể, tại đây, ở thời hiện tại, còn dư sót, có sự diệt tận lối dẫn đến các hữu, hơn nữa là (bản thể Niết bàn) không còn dư sót ở thời vị lai, lúc các hữu được diệt tận toàn bộ.

(Bhikkhu Indacanda dịch)

 

 

THERAGATHA (Trưởng Lão Tăng Kệ)

702. Mahāgini pajjalito, anāhāropasammati

Aṅgāresu ca santesu, nibbutoti pavuccati.

Đống lửa lớn cháy rực, không có nhiên liệu thì được lắng dịu, và khi các tro than được lặng yên thì được gọi là ‘tịch tịnh.’

 

703. Atthassāyaṁ viññāpanī, upamā viññūhi desitā;

Viññissanti mahānāgā, nāgaṁ nāgena desitaṁ.

Ví dụ này, giúp cho hiểu rõ về ý nghĩa, đã được thuyết giảng bởi các bậc hiểu biết, các bậc Long Tượng vĩ đại sẽ hiểu được về bậc Long Tượng đã được thuyết giảng bởi bậc Long Tượng.

 

704. Vītarāgo vītadoso, vītamoho anāsavo;

Sarīraṁ vijahaṁ nāgo, parinibbissatyanāsavo”ti.

Có luyến ái đã được xa lìa, có sân hận đã được xa lìa, có si mê đã được xa lìa, không còn lậu hoặc, trong khi dứt bỏ xác thân, bậc Long Tượng sẽ viên tịch Niết Bàn, không còn lậu hoặc.

(Bhikkhu Indacanda dịch)

 

 

KINH TƯ LƯỜNG (Tương Ưng Bộ Kinh)

18) ‘‘Seyyathāpi, bhikkhave, puriso kumbhakārapākā uṇhaṃ kumbhaṃ uddharitvā same bhūmibhāge paṭisisseyya [paṭiviseyya (sī.), patiṭṭhapeyya (syā. kaṃ. pī.), paṭiseveyya (ṭīkā)]. Tatra yāyaṃ usmā sā tattheva vūpasameyya, kapallāni avasisseyyuṃ. Evameva kho, bhikkhave, bhikkhu kāyapariyantikaṃ vedanaṃ vedayamāno kāyapariyantikaṃ vedanaṃ vedayāmīti pajānāti, jīvitapariyantikaṃ vedanaṃ vedayamāno jīvitapariyantikaṃ vedanaṃ vedayāmīti pajānāti. Kāyassa bhedā uddhaṃ jīvitapariyādānā idheva sabbavedayitāni anabhinanditāni sītībhavissanti, sarīrāni avasissantīti pajānāti.

18) Này các Tỷ-kheo, ví như một người từ trong lò nung của người thợ gốm lấy ra một cái ghè nóng và đặt trên một khoảng đất bằng phẳng để sức nóng ở đấy được nguội dần, và các miếng sành vụn được gạt bỏ một bên. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi cảm giác một cảm thọ tận cùng của thân, vị ấy biết: "Ta cảm giác một cảm thọ tận cùng của thân". Khi vị ấy cảm giác một cảm thọ tận cùng của sinh mạng, vị ấy biết: "Ta cảm giác một cảm thọ tận cùng của sinh mạng". Vị ấy biết: "Sau khi thân hoại mạng chung, ở đây tất cả những cảm thọ không làm cho có hỷ lạc, sẽ trở thành vắng lặng, cái thân được bỏ qua một bên".

(HT Thích Minh Châu dịch)

 

Monday, September 12, 2022

Chia tay Đích Lư

Hình chụp bên cạnh tủ sách ở căn nhà cũ 40 Hồ Xuân Hương



Với bé Bống, trước nhà 9B Lê Chân

Chính thức tiễn em -- con chiến mã đã gắn bó 29 năm đến giờ.

Người ta bỏ ra 6 chẹo gưỡi năn nỉ xin cưới em. Hồi đó cưới em giá xem xém hơn 6 lượng vàng. Nhớ lúc đó chạy xe đến công ty, dựng xa xa riêng một mình không cho ai đụng em, chảnh pà cố luôn. Đã vậy còn gan cùng mình, nói với bạn bè: Giám đốc mà có mượn thì sẽ nói, thôi anh cầm đỡ mấy ngàn đi xích lô, xe em mới mua không cho mượn. Thề, chuyện có thiệt! Mà hồi đó giám đốc đi chiếc honda dame cùi bắp nữa chớ. Hình như ổng nghe được, ổng xuống nói, xe em mới mua hả, cho anh mượn chạy thử một vòng!!! :)))).
Hai lần em làm con Đích Lư quăng chủ, mà vẫn ổn. Bạn bè tỉnh xa ghé đến, chắc cũng khá quen thân với em, cũng vài lần độ chân cho mấy kẻ viễn du. Mấy mùa biển êm đến biển động dựng em ngay bờ biển rồi xuống bơi vòng vòng, chả sợ ai lấy.
Hôm nay thì "ta tiễn em về đi với người", chính thức từ giã loại xe chân thắng chân số. Có lẽ người ta sẽ đưa em vào bộ 'sưu tập' nào đó. Mong là em và chủ mới sẽ làm nhiều kỷ niệm với nhau và luôn an vui như chúng mình đã từng từ cái thuở hàn vi.

~ 12/9/2022,
(ngày lính Nga chạy trốn ra khỏi Ukraine)

Sunday, September 11, 2022

Trăng nước bạc màu

 


Chợt nhận được tin nhắn trong phone: "Anh đãi ông Địa một ly bạc xỉu". Lại nhớ nhà. Lục máy tính tìm cái hình chụp chung với... ông Địa hồi xa lắc lơ.

Năm 2003, có người thuê nhà để mở tiệm Net. Ông Địa nhập hộ khẩu vào nhà cùng với máy móc, bàn ghế. Vài ngày cứ là ông Địa được nải chuối, hoặc cà phê. Năm 2005, tiệm Nét đóng cửa. Mọi máy móc bán thanh lý chỉ còn lại ông Địa không ai mang đi. Dù gì thì ông Địa cũng ở đây làm khách (hay làm chủ nhà) hai năm rồi, lúc ế ẩm hay có vấn đề gì đó mọi người đều nghĩ đến ông và thì thầm một lời nhờ vả ông, nay không thể bỗng nhiên trục xuất ông ra đường. Thế là ông Địa ở lại. Nhà không có buôn bán gì, nên ông Địa cũng cam phận bị thất sủng.

Lâu lâu lại thoảng nghe mùi nhang, đó là lúc má lẩm cẩm bỏ đâu mất cái gì đó và lại nhờ ông Đia tìm giúp. Bé Bống hồi đó mất tập mất vở, cũng nhờ ổng kiếm gìùm. Thỉnh thoảng dọn dẹp nhà cửa, thấy bàn thờ ổng trống trải quá cũng mời ổng uống trước giùm ly cà phê.

Nhớ xưa đọc đâu đó (trong Phi Long Diễn Nghĩa thì phải) là bàn thờ ông Địa trước đây đặt trên cao, khi vua Càn Long vi hành Giang Nam vào một quán thiệt là đông khách, vua không còn chỗ ngồi, nhìn thấy ông Địa ngồi trên bàn liền sai người dẹp xuống dưới đất. Thế là sau đó không thể đưa được ông Địa lên bàn nữa bởi ông Địa không chịu lên, vì lệnh thiên tử ban ra là ông Địa phải ở dưới đất. Còn có một người bạn kể ông Địa rất thích nhìn các cô mặc mini jupe, nên ông đã chọn một chỗ ngồi cho phù hợp sở thích. Bởi vậy, nên quí bà quí cô mặc đầm cũng đừng có ngại khi tiếp cận ông Địa nha, no star where!

Hôm về lại nhà sau cơn bão khủng tháng 11, thấy chiếc dĩa trên bàn thờ ông Địa -- vốn khá nặng -- không hiểu sao bị lật úp xuống đất mà không bể; nơi ông Địa ngồi là cạnh giếng trời bên trên là lưới B40 ắt là gió luồn xuống mạnh lắm. Nhà cửa sau bão vẫn yên ổn, lòng cũng thầm cảm tạ ông Địa. Lần này bán nhà thì chắc chia tay ông thật sự rồi. Biết làm sao được đành ngâm nga câu hát "trăng nước bạc màu, người đành bỏ người như sương khói sau chuyến tàu"

Sunday, September 4, 2022

Kinh Thôn Tiên (Trung Bộ Kinh 116)

Kinh Thôn Tiên (Isigili Sutta). 

Thôn Tiên không phải là một thôn nào đó toàn tiên nữ. Mà 'thôn' ở đây có nghĩa là nuốt trộng, nuốt chửng, nuốt nguyên con, nuốt trọn gói.

Năm trăm vị Phật Độc Giác đã từng cư trú ở Isigili trong một thời gian dài. Người ta thấy họ khi họ vào núi nhưng vào khuất bên trong thì không thấy nữa nên nói rằng núi đã nuốt chửng các nhà hiền triết và vì vậy nó có tên là Isigili (Isī gilatī ti = Isigili).

Chú giải sư Buddhaghosa cho biết thêm rằng khi các vị Độc Giác Phật khất thực trở về thì tảng đá mở ra như một cánh cửa cho họ vào. Bên trong tảng đá họ đã tự làm cho mình nơi trú ẩn.
Bên cạnh "Thôn tiên" này có một tảng đá đen tên là Kālasilā

Kālasilā?
Trong Tiểu Kinh Khổ Uẩn, (Kinh Trung Bộ số 14), đoạn 179, có nói một số lượng lớn mấy ông theo Ni Kiền Tử (Nigantha) sống tại Kālasilā, không bao giờ ngồi xuống, trải qua những cơn đau quỷ khốc thần sầu, theo lời dạy của Nigantha Nātaputta. Đức Phật hỏi họ về những thực hành của họ và giảng cho họ bài Tiểu Kinh Khổ Uẩn và sau này Ngài kể lại cho ông hoàng Mahānāma nghe.
Link bài kinh đó ở đây: https://vietheravada.net/kinhdien/MNdoichieu/MN-14.htm

Isigili cũng là hiện trường vụ tự sát của hai vị Godhika và Vakkali và cũng là nơi bọn côn đồ tấn công sát hại ngài Moggallāna (Mục Kiền Liên). Chúng bằm nát ngài như tương, tưởng ngài chết, chúng bỏ đi. Ngài dùng định lực về đảnh lễ Phật và nhập diệt tại Kāḷasilā. Lễ trà tỳ ngài được tổ chức trọng thể. Phật cho thu gom xá lợi của ngài và dựng tháp thờ trong Veḷuna

Tìm hoài trên mạng không thấy hình Thôn Tiên Isigili mà chỉ thấy video mờ nhạt của ngọn núi, kèm theo hình những xá lợi của ngài Mục Kiền Liên. Link ở đây:
https://www.youtube.com/watch?v=NoJas_IrA0s

Nội dung bài kinh này nói gì? Đức Thế Tôn đã kể lại nguyên do ngọn núi có tên là Isigili, Ngài nêu lên danh hiệu của một số chư Phật độc giác, nói lên lời tán thán. Do câu Phật ngôn sau cùng của kinh nầy nên tại Tích Lan Kinh Thôn Tiên được trì tụng như một bài kinh cầu an.

Xem bài kinh ở đây:
https://vietheravada.net/kinhdien/MNdoichieu/MN-116.htm

Nghe tụng Pali bài kinh này ở đây:
https://www.youtube.com/watch?v=imxq-Cr_P80

KỆ TỤNG
Khi ở thành Vương xá
Từ đỉnh núi Thôn tiên
Phật chỉ các ngọn núi
Vây quanh thành Vương xá:
Ve-bhā-ra (Phụ trọng)
Pan-da-va (Bạch thiện)
Ve-pu-lla (Quảng phổ)
Gijja-kā-ta (Linh thứu)
Những núi này xưa kia
Ðều mang những tên khác
Duy có tên Thôn tiên
Trước sao nay vẫn vậy.
Do đâu có tên này
Là I-si-gi-li (Thôn tiên)?
Xưa năm trăm Ðộc giác
Tu trong này khá lâu.
Họ đã vào trong núi
Rồi không thấy trở ra
Nên quần chúng bảo nhau:
Núi này nuốt (thôn) ẩn sĩ.
Và Phật kể danh xưng
Mười ba vị độc giác
Ðã trú trong núi ấy
Cùng nhiều ẩn sĩ khác.
Họ là những tinh hoa
Của tất cả hữu tình
Ðã nhổ mũi tên khổ
Và dứt sạch tham ái;
Ðã tự mình chứng đắc,
Ðã đoạn tận tái sinh
Ðã từ bỏ chấp thủ
Nguồn gốc của khổ đau;
Ðã đánh bại quân ma,
Ðã đoạn trừ tai nạn
Có can đảm phi thường
Thọ hình hài sau chót
Những con người vô cấu
Ðã đoạn hữu kết sử,
Ðã thắng mọi chiến trận
Ðã đạt đến Niết-bàn.

Thương

 




Thương con một nụ cười hiền
Thương con sớm bỏ cõi phiền mà đi
Thương anh đời chẳng thiên di
Nụ cười nắng lóe, bờ mi canh trường

(Thương về cháu Khánh Trang 1/10/1989 - 24/8/2022)



Saturday, September 3, 2022

Tạm biệt.. và cảm ơn Trang

 

Tạm biệt..
và cảm ơn Trang
=====
Tối qua sau khi xong trương trình livestream, tôi bị shock một lúc khi nhận được tin Trang Dao, một trong những quản lý của Dr. Wynn Tran Youtube và moderator của Dr Wynn Tran Group, qua đời .
Cách đây 2 năm, khi đại dịch Covid-19 bắt đầu đỉnh điểm và khi kênh Youtube/Facebook ngày càng có nhiều người theo dõi, tôi đăng tin tuyển moderator và trợ lý cho kênh thì tôi nhận được tin nhắn của Trang. Sau phỏng vấn, tôi nhận Trang vào làm ngày vì Trang thông thạo 3 thứ tiếng: Anh-Pháp-Việt. Trang giúp cải thiện các tương tác trên kênh Youtube, làm một số video sub tiếng Pháp cho các bài nói chuyện của tôi. Tôi thật sự bất ngờ vì kỹ năng IT và quản lý của Trang. Để giúp quý khán giả dễ tìm câu hỏi đã đặt, Trang cẩn thận gõ lại từng câu hỏi sau mỗi chương trình.
Mỗi lần livestream, nhất là trong đại dịch Covid-19, hàng ngàn câu hỏi khắp nơi đổ về, Trang và các bạn trong team cẩn thận lựa ra những câu hỏi trực tiếp hay nhất, liên quan nhất và có thể giúp nhiều người nhất đưa vào inbox cho tôi trả lời.
Trang đã thầm lặng giúp đỡ cộng đồng như vậy trong lúc cô phải chịu đựng những cơn đau kinh khủng, hành hạ cơ thể khi chống chọi với căn bệnh ung thư máu giai đoạn cuối.
Có lần Trang hỏi tôi về Thủy "Muối", một người bạn thân đã sáng lập tổ chức Ung Thư Thủy Muối (SCI). Tôi trả lời là khi nào có dịp gặp tại Canada thì tôi sẽ kể về Thủy. Giờ đây thì cơ hội đó không còn nữa. Tôi muốn nói rằng Trang và Thủy là những người bạn tôi quý nhất vì cả hai đều sống hết mình vì mọi người.
Các vị trí quản lý và moderator ở Dr. Wynn Tran yoututbe/facebook đều là thiện nguyện nên chỉ có những ai thật sự rất tâm huyết cho cộng đồng mới dành thời gian phụ giúp. Với gần 1 triệu người theo dõi trên youtube/facebook, tôi không thể làm tốt việc của mình nếu như không có Trang và các bạn trong team Dr. Wynn Tran giúp đỡ.
Cảm ơn Trang đã cùng tôi giúp đỡ cộng đồng trong đại dịch Covid-19, giúp tôi hơn 100 video về Covid-19.
Cảm ơn các bạn Team Dr. Wynn Tran gồm Thuy Duong (Vietnam), Nhi Truong (USA), Nguyen Nguyen (USA), Minh Tran (Australia), và bác Thien Ho (USA) đã và đang giúp chương trình Dr. Wynn Tran ngày càng tốt hơn.
Để tưởng nhớ Trang, trong chương trình livestream thứ Sáu tuần tới, tôi sẽ nói về ung thư máu. Mong gia đình và người thân của Trang sớm vượt qua mất mát này.
BS Wynn Tran, Los Angeles, Hoa Kỳ

Friday, September 2, 2022

NAKED




Ta đến trần gian không mảnh vải
Cũng sẽ ra đi với tấm thân trần
Ta đến trong hình hài yếu ớt
Cũng chẳng hề mạnh mẽ lúc ra đi.
Hành trang khi đến chẳng có gì.
Rồi khi đi cũng chẳng mang theo được.
Tắm lần đầu phải nhờ tay ai đó
Rồi lần cuối cùng cũng chẳng biết ai lo
Đời là vậy! Sao ác ý đố kỵ.
Sao hận thù, sao ích kỷ mưu toan.
Kiếp nhân sinh hữu hạn, chớ đa đoan
Hãy thở cười với tâm tình bi mẫn
(Nhị Tường dịch)

-----------
You came naked,
You will go naked.
You arrived weak,
You will leave weak.
You came without money and things,
You will leave even without money and things.
Your first bath? Someone washed you,
Your last bath? Someone will wash you.
This is life!!!
So why so much malice, so much envy, so much hate, so much resentment and so much selfishness?
BE KIND to everyone, smile often and do good deeds. Remember our time is limited on Earth don’t waste it in uselessness

Thursday, September 1, 2022

Cát bụi mệt nhoài.

Lúc đó đã gần trưa, có chuông điện thoại. Là anh tôi gọi. Vừa bấm nghe, bên kia anh tôi khóc òa, to lắm: "Tuyền ơi, anh đau khổ quá!". Tôi hơi mất bình tĩnh, hỏi anh có chuyện gì?

Anh nói: Bé Khánh Trang mất rồi!


Hai lần trong đời, tôi chứng kiến hai người đàn ông khóc to nức nở như vậy.
Năm 1986, tôi và ba về Nam Định lần đầu tiên. Sau ba mươi hai năm, ông một thân một mình ra đi rồi trở về, ba tôi khóc òa, to lắm, vừa khóc vừa mếu máo: "Cô Tí ơi, con đã về đây. Thằng Nam của cô đã về đây".
Khi ấy tôi còn quá trẻ để hiểu tâm trạng của ba, để cảm nhận trong tiếng khóc ấy chứa đựng nhiều nỗi niềm, có cả ray rứt ân hận (vì đứa con duy nhất đã bỏ cha mẹ già ở lại mà vào Nam), và cả niềm vui trùng phùng, được tìm lại, tìm thấy, tìm gặp.
Còn bây giờ, tiếng khóc xé lòng của anh tôi là tiếng khóc đau đớn, mất mát không gì sánh được.
Tôi và em gái liền ra với anh để an ủi anh.
Anh vừa qua cơn bệnh nặng năm ngoái, đang trong quá trình hồi phục, sợ anh xuống tinh thần.
Khi một người ra đi thì những người còn lại sẽ nghĩ gì? Tôi nghĩ, có lẽ, không ngoài chuỗi hồi tưởng miên man về những kỷ niệm.
Đào Duy Khánh Trang là trưởng nữ của anh tôi. Tên của cháu ghép đôi hai địa danh thân thương quê nhà: Diên Khánh - Nha Trang.
Cháu đi học ở Canada năm 18 tuổi và ở lại làm việc đến khi cháu mất vì một căn bệnh hiểm nghèo ở tuổi 33.
Lần gần nhất tôi gặp cháu cách đây 12 năm trong đám cưới của anh cháu. Tôi mở máy tính xem chậm album hôm đám cưới. Cháu tôi, cô gái bé nhỏ, dịu hiền, xinh đẹp, có nụ cười thật tươi, rạng rỡ. Tôi lục tìm những tấm hình ngày cháu còn bé, nhỏ xíu, e thẹn dễ thương làm sao.
Rồi cô cháu chỉ liên lạc qua facebook.
Sống, làm việc ở Canada nhưng cháu rất quan tâm tình hình Việt Nam với những suy nghĩ tích cực và nhân văn. Thỉnh thoảng tôi và cháu có trao đổi những thông tin cháu chưa hiểu. Qua đó, tôi luôn nhìn thấy những suy nghĩ trong sáng và rất lạc quan của cháu. Cô cháu gái hiền hậu, thùy mị, thông minh và có trái tim nhân ái.
Tôi xem lại những album trên facebook của cháu. Tấm hình nào cũng xinh đẹp, căng tràn sức sống.
Tôi gửi cho anh tôi những tấm hình của cháu.
Anh nhắn: "Nhìn nụ cười tỏa nắng của con gái mà thương con vô cùng".
Gia đình lớn của chúng tôi, những ngày này rất buồn, không định viết, muốn để mọi thứ qua đi, nhưng thương cháu quá.
Chúng ta đến thế giới này để nói lời chia tay, mỗi người một cách. Dù biết là như vậy nhưng đau quá, xót quá.
Bé ơi, như một lời chia tay cô Tuyền thương yêu gửi đến con. Thân nhẹ nhàng như mây, con nhé.
(by Cô Tuyền)

https://www.lepinecloutier.com/necrologie-avis-de-deces/67932-khanh-trang-dao-duy?fbclid

Đọc Kinh Vương Tử Bồ Đề

 


Bài Kinh 85 Trung Bộ Kinh- Kinh Bồ Đề Vương Tử thú vị ghê. Mô tả gần như trọn gói quá trình chứng đạo và hoằng pháp đầu tiên của Đức Phật.

-----
* Ông Vương Tử Bồ Đề này quy y Phật 3 lần khi còn trong bụng mẹ và khi bà vú ẵm nách (Đoạn 346).
Theo Chú giải, ông Vương tử Bồ-đề không con, mong muốn có một con trai. Ông nghe nói cúng Phật thì có thể thỏa mãn ước nguyện, nên trải một tấm vải trắng và nguyện: nếu Phật dẫm lên tấm vải, thì ông sẽ có con trai; nếu Phật không dẫm lên tấm vải thì không. Thế nhưng Phật đã không dẫm lên tấm vải, bởi biết do ác nghiệp quá khứ nên ông không thể có con. Kiếp xưa vợ chồng ông là thương buôn chìm tàu dạt trên đảo hoang. Không có gì ăn họ ăn toàn trứng chim suốt. Do tội ăn trứng, lúc ăn thì cũng biết mình ăn mầm sống, nên đời đời sinh ra không con. (Có lẽ bạn nào hiếm muộn cũng không nên ăn trứng). Hơn nữa, Ngài không làm như vậy bởi nếu thiên hạ cứ vì cung kính chư tăng mà được thỏa nguyện thì sau này họ sẽ không cung kính nữa nếu mong cầu của họ không được đáp ứng. (Đoạn 325)
------
Đoạn 327-328 nói về quá trình học với những vị thầy: Alara Kalama, Uddaka Ramaputta, chứng Phi tưởng phi phi tưởng.
Ngài học hết bài của mấy ổng, tốt nghiệp hạng xuất sắc, được giữ lại trường giảng dạy luôn. Ông thầy Uddaka Ramaputta nói: "Tôi như thế nào, Hiền giả là như vậy; Hiền giả như thế nào, tôi là như vậy. Nay hãy đến đây, Hiền giả, hai chúng ta hãy chăm sóc hội chúng này!"
Nhưng Ngài chê: "Pháp này không hướng đến yểm ly, không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn, mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Phi tưởng phi phi tưởng xứ".
Rồi Ngài bỏ đi tiếp.
-----
Ngài nghĩ rằng nếu muốn chứng đắc cần phải buông bỏ những khát vọng về thân cũng như về tâm.
"Cũng vậy, này Vương tử, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn sống xả ly các dục về thân, những gì đối với các vị ấy thuộc các dục, như dục tham, dục ái, dục hôn ám, dục khác vọng, dục nhiệt não, về nội tâm được khéo đoạn trừ. Nếu những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn này thình lình cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt, các vị ấy có thể chứng được tri kiến vô thượng Chánh Ðẳng Giác. Và nếu những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn này không thình lình cảm thọ những cảm giác khổ đau, kịch liệt, khốc liệt, các vị này cũng có thể chứng được tri kiến vô thượng Chánh Ðẳng Giác. Này Vương tử, đó là ví dụ thứ ba, vi diệu, từ trước chưa từng được nghe, được khởi lên nơi Ta."
Sau đó là quá trình hành xác, tu thiền nín thở, nhịn ăn vv.. đến sắp chết, chư thiên vẫn tìm cách duy trì sự sống của Ngài. Và cuối cùng Ngài ăn trở lại, vì có khổ hạnh đau đớn cũng không thể chứng đạo.
--------
Từ đoạn 335 bắt đầu nói về quá trình đắc chứng Tam Minh của Ngài.
"...Này Vương tử, đó là minh thứ ba mà Ta đã chứng được trong canh cuối, vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm tinh cần."
Ngài dạy muốn tu chứng phải có 5 tinh cần chi:
1. Tin Phật;
2. Có sức khỏe, ít bệnh;
3. Trung thực không gian trá;
4. Siêng năng từ bỏ các bất thiện và tu tập thiện pháp;
5. Có trí tuệ về sự sinh diệt của các pháp.
Nếu như vậy thì vị ấy có thể đắc lậu tận trong bảy năm. Cũng có thể là sáu, năm, bốn, ba, hai, một năm, cho đến bảy tháng, sáu, năm, bốn, ba, hai, một, nửa tháng, cho đến bảy đêm ngày. Lại có thể có người được giảng dạy buổi sáng thì buổi chiều đã chứng đắc. (Đoạn 345)
------
Sau khi chứng đạo, Ngài thấy rằng thật khó mà nói cho thế gian hiểu đạo của Ngài.
"Pháp này do Ta chứng được, thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ người trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng này thì ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục. Ðối với quần chúng ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục, thật khó mà thấy được định lý Idapaccàyata Paticcasamuppada (Y Tánh Duyên Khởi Pháp); sự kiện này thật khó thấy; tức là sự tịnh chỉ tất cả hành, sự trừ bỏ tất cả sanh y, ái diệt, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn. Nếu nay Ta thuyết pháp mà các người khác không hiểu Ta, thời như vậy thật khổ não cho Ta, như vậy thật bực mình cho Ta!"
Pháp do Ngài chứng mà Ngài còn thấy khó nói nữa, vậy mà các facebookers chúng ta biết tí xíu như hột mè lại cứ thích vanh vách giảng cho người này người kia kiểu khoe pháp. :)))
-----
Phạm Thiên Sahampati đã thỉnh Ngài thuyết pháp. Nếu không có ông này có lẽ chúng ta giờ cũng mù tịt về đạo Phật. Đời đời nhớ ơn ổng sống mãi trong đạo nghiệp của chúng ta. 🙂 . Ổng nói, căn cơ chúng sanh đủ kiểu đủ cỡ như hoa sen trong hồ, có người này người kia, xin Ngài hãy từ bi mà thuyết. (Đoạn 339). Nếu như ngài Sahampati xuống vào thời này, ắt sẽ nói, còn có loại sen đột biến nữa thưa Phật....
------
Và Ngài nói với Phạm Thiên Sahampati một bài kệ
‘Apārutā tesaṃ amatassa dvārā,
Ye sotavanto pamuñcantu saddhaṃ;
Vihiṃsasaññī paguṇaṃ na bhāsiṃ,
Dhammaṃ paṇītaṃ manujesu brahme.
Sở dĩ mình ghi Pali ra đây, vì bên PG Tích Lan cho rằng bài kệ này là gần giống như câu thần chú hộ thân, khi nào trong cuộc sống gặp sự rắc rối cần sự suôn sẻ, cứ chuyên tâm tụng câu này trong thời gian ngắn thì cái gì cũng xong. Nếu không giải quyết được thì tối thiểu cũng được sự yên tâm.
Nếu trong tiếng Việt có những bài thơ đọc từ dưới lên vẫn đầy đủ ý nghĩa và giữ nguyên nghĩa thì bài thơ Pali này cũng đặc biệt như vậy.
HT Thích Minh Châu dịch Việt:
Cửa bất tử rộng mở, cho những ai chịu nghe.
Hãy từ bỏ tín tâm, không chính xác của mình.
Tự nghĩ đến phiền toái, Ta đã không muốn giảng,
Tối thượng vi diệu pháp, Giữa chúng sanh loài Người.
(Ôi Phạm thiên)
Sư GN dịch:
"Cánh cửa bất tử nay đã được mở ra, những ai có tai để nghe xin mở rộng niềm tin của mình. Từ lâu lắm rồi (pagunam: thời gian rất dài) chỉ nghĩ đến chuyện mệt mỏi (Vihimsasaññī), nên ta đã không có nói pháp vi diệu cho chúng sinh, này Phạm Thiên (Brahme). Dịch ngược lại từ hàng cuối cùng lên nghĩa vẫn giống nhau: Này Phạm Thiên, từ lâu lắm rồi, chỉ nghĩ đến mệt mỏi, pháp này là pháp ngược dòng, nói cho người nghe không phải là chuyện dễ dàng, đơn giản, nên ta đã không có lòng nói pháp.
Câu Pāḷi này đặc biệt là dịch ngược từ hàng cuối cùng và chữ cuối cùng, câu số 1 xuống câu số 4 và câu số 4 lên câu số 1 đều nghĩa giống nhau; đọc ngược cũng được đọc xuôi cũng được, chính là lý do giúp cho mọi sự được suôn sẻ giống như bài kệ này, trên xuống hay dưới lên, kiểu nào cũng ok." (Trích NKCBK)
Đó là những gì thú vị của bài kinh. Mời quí vị thưởng thức Pali -Việt ở đây:

Sống khôn thác thiêng

“Những gia đình nào mà có con cái hiếu thảo thì những gia đình đó được coi là gia đình [có] Phạm thiên”. Đó là câu trong bài kinh "Ngan...