Hát với bạn bè, tháng 11/2022
Thursday, December 29, 2022
Wednesday, December 28, 2022
Tuổi nào ghi dấu chân chim qua trời?
Một ngày tưới cây bỗng nhớ một câu hát của Trịnh Công Sơn:
Tuổi nào nhìn lá vàng úa chiều nayTuổi nào ghi dấu chân chim qua trời.
Câu hát vừa băng ngang đầu bỗng chợt nhớ Subhadda. Đó là một du sĩ ngoại đạo, vào đêm cuối cùng khi Đức Phật sắp viên tịch đã nghĩ rằng một con người vĩ đại một con người hy hữu có một không hai sắp từ giã cõi đời, nên vội vã cố vào tìm gặp để xin giải đáp một nghi vấn vừa khởi lên.
Trong kinh có nói hai ông tên là Subhadda. Một ông là đệ tử đã xuất gia khi lớn tuổi, trong đoàn tỳ kheo tùy tùng ngài Ca Diếp trên đường về Kusinara, nghe tin Đức Phật viên tịch và chung quanh khóc thương đã nói rằng khóc mà chi từ nay chúng ta được thoát khỏi hoàn toàn vị Ðại Sa-môn ấy, không bị phiền bởi những câu "Làm như thế này không hợp với các ngươi, làm như thế này hợp với các ngươi; nay thì muốn làm gì thì làm, không muốn làm thì không làm…
Khi du sĩ ngoại đạo Subhadda vào xin gặp Phật, ngài Ānanda chặn lại không cho. Phật mệt lắm rồi, thôi đừng làm phiền nữa. Ba lần xin gặp ngài Ānanda đều ngăn lại. Đức Phật nói ngài Ānanda cho vào vì biết rằng đây là một người đến để hỏi đạo chớ không phải làm phiền. Ngoại đạo Subhadda vào chúc tụng hỏi thăm xã giao rồi nêu tên những vị giáo chủ, khai tổ các giáo phái tiếng tăm và hỏi Phật rằng tất cả những vị này có phải là giác ngộ chưa, hay chưa giác ngộ, hay một số giác ngộ một số chưa, hay tự nhận mình đã giác ngộ.
Hai ngàn năm trăm năm trước cũng giống y hệt giang cư mận chúng ta ngày nay nhỉ. Nhưng vị du sĩ ngoại đạo này hỏi với một tinh thần là để học hỏi chớ không phải để… ném đá.
Và Đức Phật đã nói, thôi nào Subhadda, để chuyện ông nào đắc ông nào chưa đắc qua một bên đi, lắng nghe nè:
Trên hư không không từng có dấu chân chim.
Ngoài bát thánh đạo không có thánh nhân.
Vạn hữu không thể nào có sự vĩnh cửu.
Chư Phật không hề có sự dao động.
(PC 255, Phẩm Phật Đà)
(255. Ākāse padaṃ n’atthi samaṇo n’atthi bāhire, saṅkhārā sassatā n’atthi n’atthi buddhānaṃ iñjitaṃ.)
Sau đó thì du sĩ ngoại đạo Subhadda được xuất gia thọ đại giới với Đức Phật. Đó là vị đệ tử cuối cùng được Ngài tế độ vào phút… 89.
Vậy chuyện câu hát của Trịnh Công Sơn có liên quan gì ông Subhadda? Đó là không biết là Trịnh Công Sơn có nghe qua câu kinh “Trên hư không không từng có dấu chân chim” hay chưa, nhưng chim bay trên trời làm sao mà in dấu chân. Rõ ràng ở đây là một sự “từ bi bất ngờ” của Trịnh Công Sơn khi một ngày nhìn thấy trên khuôn mặt giai nhân nào đó quá trời dấu chân chim!!!
Câu nhạc ấy có lẽ là “tuổi nào ghi dấu chân chim quá trời”, bởi Phật nói trên hư không làm gì có dấu chân chim!
Friday, December 23, 2022
Cuộc đời ông già Nô-en
1. Tuần trước, bà nói nó hãy ngoan. Ông già Nô-en sẽ cho quà những đứa trẻ ngoan. Thế là nó cứ ngoan, và ngày nào nó cũng hỏi khi nào ông già Nô-en mới cho quà. Bà phải mỏi miệng trả lời là ngày 25. Nó không hình dung được ngày 25 là gì. Bà mở ipad và chỉ cho nó con số ngày tháng.
Friday, November 4, 2022
Những bài kinh nói về niết bàn
NIỆM NIẾT BÀN
Khi thấy
khổ nhân (bị phiền não) hay khổ quả (bị bất toại) cứ suy niệm:
Niết bàn không có như vậy; niết bàn là sự vắng mặt của danh và sắc, của năm uẩn, 12 xứ, 18 giới; niết bàn là sự vắng mặt của nhân và quả; niết bàn không có khổ lạc, niết bàn không có thiện ác. Cách niệm này ngay cả ung thư kỳ cuối tuy không hết bệnh, nhưng giảm đau và giúp ta đủ bình tĩnh để ra đi trong tỉnh táo, thanh thản.
Dưới đây là những bài kinh nói về Niết Bàn
NHỮNG BÀI KINH NÓI VỀ
NIẾT BÀN
DHAMMAPADA (Kinh Pháp
Cú)
202. Natthi rāgasamo
aggi,
Natthi dosasamo kali;
Natthi khandhasamā
dukkhā,
Natthi santiparaṁ
sukhaṁ.
“Lửa nào sánh lửa
tham?
Ác nào bằng sân hận?
Khổ nào sánh khổ uẩn,
Lạc nào bằng tịnh lạc.”
203. Jighacchāparamā
rogā,
saṅkhāraparamā dukhā;
Etaṁ ñatvā yathābhūtaṁ,
nibbānaṁ paramaṁ
sukhaṁ.
“Ðói ăn, bệnh tối thượng,
Các hành, khổ tối thượng,
Hiểu như thực là vậy,
Niết Bàn, lạc tối thượng.”
(HT Thích Minh Châu dịch)
ITIVUTTAKA 43. (Phật Thuyết Như Vậy)
AJATASUTTA (KINH KHÔNG SANH)
1. “Atthi bhikkhave,
ajātaṃ abhūtaṃ akataṃ asaṅkhataṃ. No ce taṃ bhikkhave, abhavissā ajātaṃ abhūtaṃ
akataṃ asaṅkhataṃ, nayidha jātassa bhūtassa katassa saṅkhatassa nissaraṇaṃ
paññāyetha. Yasmā ca kho bhikkhave, atthi ajātaṃ abhūtaṃ akataṃ asaṅkhataṃ,
tasmā jātassa bhūtassa katassa saṅkhatassa nissaraṇaṃ paññāyatī ”ti.
“Này các tỳ khưu, có cái không sanh—không hiện hữu—không làm
ra— không tạo tác. Này các tỳ khưu, nếu không có cái không sanh—không hiện hữu—không
làm ra—không tạo tác ấy thì ở đây việc ra khỏi cái sanh—hiện hữu—làm ra—tạo tác
không được biết đến. Này các tỳ khưu, bởi vì có cái không sanh—không hiện hữu—không
làm ra—không tạo tác, cho nên việc ra khỏi cái sanh—hiện hữu—làm ra—tạo tác được
biết đến.”
2. “Jātaṁ bhūtaṁ
samuppannaṁ, kataṁ saṅkhatamaddhuvaṁ;
Jarāmaraṇasaṅghāṭaṁ,
roganīḷaṁ pabhaṅguraṁ.
Āhāranettippabhavaṁ,
nālaṁ tadabhinandituṁ;
“Cái sanh—hiện hữu—phát khởi—làm ra—tạo tác là không bền vững,
gắn liền với già và chết, cái ổ của bệnh tật, dễ tiêu hoại, có thức ăn và tham
ái là nguồn sanh khởi, không xứng đáng để thích thú
3. Tassa nissaraṇaṁ
santaṁ, atakkāvacaraṁ dhuvaṁ,
ajātaṁ asamuppannaṁ,
asokaṁ virajaṁ padaṁ;
nirodho
dukkhadhammānaṁ, saṅkhārūpasamo sukho”ti.
Sự ra khỏi cái ấy là
an tịnh, vượt ngoài suy luận, bền vững, không sanh, không phát khởi, không sầu,
xa lìa luyến ái, là chỗ tựa, sự tịch diệt các pháp khổ, sự yên lặng các pháp tạo
tác, an lạc.”
(Bhikkhu Indacanda dịch)
ITIVUTTAKA 44. (Phật
Thuyết Như Vậy)
1. “Dvemā, bhikkhave,
nibbānadhātuyo. Katamā dve? Saupādisesā ca nibbānadhātu, anupādisesā ca
nibbānadhātu.
“Này các tỳ khưu, đây
là hai bản thể của Niết Bàn. Hai bản thể nào? Bản thể Niết bàn còn dư sót và bản
thể Niết Bàn không còn dư sót.
2. Katamā ca,
bhikkhave, saupādisesā nibbānadhātu? Idha, bhikkhave, bhikkhu arahaṁ hoti khīṇāsavo
vusitavā katakaraṇīyo ohitabhāro anuppattasadattho parikkhīṇabhavasaṁyojano
sammadaññāvimutto. Tassa tiṭṭhanteva pañcindriyāni yesaṁ avighātattā
manāpāmanāpaṁ paccanubhoti, sukhadukkhaṁ paṭisaṁvedeti. Tassa yo rāgakkhayo,
dosakkhayo, mohakkhayo—ayaṁ vuccati, bhikkhave, saupādisesā nibbānadhātu.
Và này các tỳ khưu, cái nào là bản thể Niết bàn còn dư sót?
Này các tỳ khưu, ở đây vị tỳ khưu là bậc A-la-hán, có lậu hoặc
đã được cạn kiệt, đã được hoàn mãn, có việc cần làm đã làm, có gánh nặng đã được
đặt xuống, có mục đích của mình đã được đạt đến, có sự trói buộc ở hữu đã được đoạn
tận, đã hiểu biết đúng đắn và đã được giải thoát. Đối với vị ấy, năm giác quan
vẫn tồn tại, thông qua trạng thái không bị hủy hoại của chúng vị ấy tiếp nhận đối
tượng thích ý hoặc không thích ý, và cảm thọ hạnh phúc hay khổ đau. Cái có cho
vị ấy là sự diệt trừ tham, sự diệt trừ sân, sự diệt trừ si. Này các tỳ khưu,
cái này gọi là bản thể Niết bàn còn dư sót.
3. Katamā ca,
bhikkhave, anupādisesā nibbānadhātu?
Idha, bhikkhave,
bhikkhu arahaṁ hoti khīṇāsavo vusitavā katakaraṇīyo ohitabhāro
anuppattasadattho parikkhīṇabhavasaṁyojano sammadaññāvimutto. Tassa idheva,
bhikkhave, sabbavedayitāni anabhinanditāni sīti bhavissanti. Ayaṁ vuccati,
bhikkhave, anupādisesā nibbānadhātu. Imā kho, bhikkhave, dve nibbānadhātuyo”ti.
Và này các tỳ khưu,
cái nào là bản thể Niết bàn không còn dư sót?
Này các tỳ khưu, ở đây vị tỳ khưu là bậc A-la-hán, có lậu hoặc
đã được cạn kiệt, đã được hoàn mãn, có việc cần làm đã làm, có gánh nặng đã được
đặt xuống, có mục đích của mình đã được đạt đến, có sự trói buộc ở hữu đã được đoạn
tận, đã hiểu biết đúng đắn và đã được giải thoát. Này các tỳ khưu, đối với vị ấy,
ngay ở nơi đây tất cả những gì được cảm thọ là không được thích thú, sẽ trở
thành mát lạnh. Này các tỳ khưu, cái này gọi là bản thể Niết bàn không còn dư
sót. Này các tỳ khưu, đây là hai bản thể của Niết Bàn.”
4. “Duve imā
cakkhumatā pakāsitā,
Nibbānadhātū
anissitena tādinā;
Ekā hi dhātu idha diṭṭhadhammikā,
Saupādisesā
bhavanettisaṅkhayā;
Anupādisesā pana
samparāyikā,
Yamhi nirujjhanti
bhavāni sabbaso.
“Hai bản thể Niết bàn này đã được giảng giải bởi đấng Hữu
Nhãn, bậc không bị lệ thuộc, bậc tự tại: Một bản thể, tại đây, ở thời hiện tại,
còn dư sót, có sự diệt tận lối dẫn đến các hữu, hơn nữa là (bản thể Niết bàn) không
còn dư sót ở thời vị lai, lúc các hữu được diệt tận toàn bộ.
(Bhikkhu Indacanda dịch)
THERAGATHA (Trưởng
Lão Tăng Kệ)
702. Mahāgini
pajjalito, anāhāropasammati
Aṅgāresu ca santesu, nibbutoti
pavuccati.
Đống lửa lớn cháy rực, không có nhiên liệu thì được lắng dịu,
và khi các tro than được lặng yên thì được gọi là ‘tịch tịnh.’
703. Atthassāyaṁ
viññāpanī, upamā viññūhi desitā;
Viññissanti mahānāgā,
nāgaṁ nāgena desitaṁ.
Ví dụ này, giúp cho hiểu rõ về ý nghĩa, đã được thuyết giảng
bởi các bậc hiểu biết, các bậc Long Tượng vĩ đại sẽ hiểu được về bậc Long Tượng
đã được thuyết giảng bởi bậc Long Tượng.
704. Vītarāgo
vītadoso, vītamoho anāsavo;
Sarīraṁ vijahaṁ nāgo,
parinibbissatyanāsavo”ti.
Có luyến ái đã được xa lìa, có sân hận đã được xa lìa, có si
mê đã được xa lìa, không còn lậu hoặc, trong khi dứt bỏ xác thân, bậc Long Tượng
sẽ viên tịch Niết Bàn, không còn lậu hoặc.
(Bhikkhu Indacanda dịch)
KINH TƯ LƯỜNG (Tương
Ưng Bộ Kinh)
18) ‘‘Seyyathāpi, bhikkhave, puriso kumbhakārapākā uṇhaṃ
kumbhaṃ uddharitvā same bhūmibhāge paṭisisseyya [paṭiviseyya (sī.), patiṭṭhapeyya
(syā. kaṃ. pī.), paṭiseveyya (ṭīkā)]. Tatra yāyaṃ usmā sā tattheva vūpasameyya,
kapallāni avasisseyyuṃ. Evameva kho, bhikkhave, bhikkhu kāyapariyantikaṃ vedanaṃ
vedayamāno kāyapariyantikaṃ vedanaṃ vedayāmīti pajānāti, jīvitapariyantikaṃ
vedanaṃ vedayamāno jīvitapariyantikaṃ vedanaṃ vedayāmīti pajānāti. Kāyassa
bhedā uddhaṃ jīvitapariyādānā idheva sabbavedayitāni anabhinanditāni
sītībhavissanti, sarīrāni avasissantīti pajānāti.
18) Này các Tỷ-kheo, ví như một người từ trong lò nung của
người thợ gốm lấy ra một cái ghè nóng và đặt trên một khoảng đất bằng phẳng để
sức nóng ở đấy được nguội dần, và các miếng sành vụn được gạt bỏ một bên. Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, khi cảm giác một cảm thọ tận cùng của thân, vị ấy biết:
"Ta cảm giác một cảm thọ tận cùng của thân". Khi vị ấy cảm giác một cảm
thọ tận cùng của sinh mạng, vị ấy biết: "Ta cảm giác một cảm thọ tận cùng
của sinh mạng". Vị ấy biết: "Sau khi thân hoại mạng chung, ở đây tất
cả những cảm thọ không làm cho có hỷ lạc, sẽ trở thành vắng lặng, cái thân được
bỏ qua một bên".
(HT Thích Minh Châu dịch)
Monday, September 12, 2022
Chia tay Đích Lư
Hình chụp bên cạnh tủ sách ở căn nhà cũ 40 Hồ Xuân Hương
Chính thức tiễn em -- con chiến mã đã gắn bó 29 năm đến giờ.
Sunday, September 11, 2022
Trăng nước bạc màu
Sunday, September 4, 2022
Kinh Thôn Tiên (Trung Bộ Kinh 116)
Kinh Thôn Tiên (Isigili Sutta).
Thôn Tiên không phải là một thôn nào đó toàn tiên nữ. Mà 'thôn' ở đây có nghĩa là nuốt trộng, nuốt chửng, nuốt nguyên con, nuốt trọn gói.
Năm trăm vị Phật Độc Giác đã từng cư trú ở Isigili trong một thời gian dài. Người ta thấy họ khi họ vào núi nhưng vào khuất bên trong thì không thấy nữa nên nói rằng núi đã nuốt chửng các nhà hiền triết và vì vậy nó có tên là Isigili (Isī gilatī ti = Isigili).Chú giải sư Buddhaghosa cho biết thêm rằng khi các vị Độc Giác Phật khất thực trở về thì tảng đá mở ra như một cánh cửa cho họ vào. Bên trong tảng đá họ đã tự làm cho mình nơi trú ẩn.
Bên cạnh "Thôn tiên" này có một tảng đá đen tên là Kālasilā
Kālasilā?
Trong Tiểu Kinh Khổ Uẩn, (Kinh Trung Bộ số 14), đoạn 179, có nói một số lượng lớn mấy ông theo Ni Kiền Tử (Nigantha) sống tại Kālasilā, không bao giờ ngồi xuống, trải qua những cơn đau quỷ khốc thần sầu, theo lời dạy của Nigantha Nātaputta. Đức Phật hỏi họ về những thực hành của họ và giảng cho họ bài Tiểu Kinh Khổ Uẩn và sau này Ngài kể lại cho ông hoàng Mahānāma nghe.
Link bài kinh đó ở đây: https://vietheravada.net/kinhdien/MNdoichieu/MN-14.htm
Isigili cũng là hiện trường vụ tự sát của hai vị Godhika và Vakkali và cũng là nơi bọn côn đồ tấn công sát hại ngài Moggallāna (Mục Kiền Liên). Chúng bằm nát ngài như tương, tưởng ngài chết, chúng bỏ đi. Ngài dùng định lực về đảnh lễ Phật và nhập diệt tại Kāḷasilā. Lễ trà tỳ ngài được tổ chức trọng thể. Phật cho thu gom xá lợi của ngài và dựng tháp thờ trong Veḷuna
Tìm hoài trên mạng không thấy hình Thôn Tiên Isigili mà chỉ thấy video mờ nhạt của ngọn núi, kèm theo hình những xá lợi của ngài Mục Kiền Liên. Link ở đây:
https://www.youtube.com/watch?v=NoJas_IrA0s
Nội dung bài kinh này nói gì? Đức Thế Tôn đã kể lại nguyên do ngọn núi có tên là Isigili, Ngài nêu lên danh hiệu của một số chư Phật độc giác, nói lên lời tán thán. Do câu Phật ngôn sau cùng của kinh nầy nên tại Tích Lan Kinh Thôn Tiên được trì tụng như một bài kinh cầu an.
Xem bài kinh ở đây:
https://vietheravada.net/kinhdien/MNdoichieu/MN-116.htm
Nghe tụng Pali bài kinh này ở đây:
https://www.youtube.com/watch?v=imxq-Cr_P80
KỆ TỤNG
Khi ở thành Vương xá
Từ đỉnh núi Thôn tiên
Phật chỉ các ngọn núi
Vây quanh thành Vương xá:
Ve-bhā-ra (Phụ trọng)
Pan-da-va (Bạch thiện)
Ve-pu-lla (Quảng phổ)
Gijja-kā-ta (Linh thứu)
Những núi này xưa kia
Ðều mang những tên khác
Duy có tên Thôn tiên
Trước sao nay vẫn vậy.
Do đâu có tên này
Là I-si-gi-li (Thôn tiên)?
Xưa năm trăm Ðộc giác
Tu trong này khá lâu.
Họ đã vào trong núi
Rồi không thấy trở ra
Nên quần chúng bảo nhau:
Núi này nuốt (thôn) ẩn sĩ.
Và Phật kể danh xưng
Mười ba vị độc giác
Ðã trú trong núi ấy
Cùng nhiều ẩn sĩ khác.
Họ là những tinh hoa
Của tất cả hữu tình
Ðã nhổ mũi tên khổ
Và dứt sạch tham ái;
Ðã tự mình chứng đắc,
Ðã đoạn tận tái sinh
Ðã từ bỏ chấp thủ
Nguồn gốc của khổ đau;
Ðã đánh bại quân ma,
Ðã đoạn trừ tai nạn
Có can đảm phi thường
Thọ hình hài sau chót
Những con người vô cấu
Ðã đoạn hữu kết sử,
Ðã thắng mọi chiến trận
Ðã đạt đến Niết-bàn.
Thương
Saturday, September 3, 2022
Tạm biệt.. và cảm ơn Trang
Friday, September 2, 2022
NAKED
Ta đến trần gian không mảnh vải
Cũng sẽ ra đi với tấm thân trần
Ta đến trong hình hài yếu ớt
Cũng chẳng hề mạnh mẽ lúc ra đi.
Hành trang khi đến chẳng có gì.
Rồi khi đi cũng chẳng mang theo được.
Tắm lần đầu phải nhờ tay ai đó
Rồi lần cuối cùng cũng chẳng biết ai lo
Đời là vậy! Sao ác ý đố kỵ.
Sao hận thù, sao ích kỷ mưu toan.
Kiếp nhân sinh hữu hạn, chớ đa đoan
Hãy thở cười với tâm tình bi mẫn
(Nhị Tường dịch)
-----------
You came naked,
You will go naked.
You arrived weak,
You will leave weak.
You came without money and things,
You will leave even without money and things.
Your first bath? Someone washed you,
Your last bath? Someone will wash you.
This is life!!!
So why so much malice, so much envy, so much hate, so much resentment and so much selfishness?
BE KIND to everyone, smile often and do good deeds. Remember our time is limited on Earth don’t waste it in uselessness
Thursday, September 1, 2022
Cát bụi mệt nhoài.
Lúc đó đã gần trưa, có chuông điện thoại. Là anh tôi gọi. Vừa bấm nghe, bên kia anh tôi khóc òa, to lắm: "Tuyền ơi, anh đau khổ quá!". Tôi hơi mất bình tĩnh, hỏi anh có chuyện gì?
Anh nói: Bé Khánh Trang mất rồi!
Hai lần trong đời, tôi chứng kiến hai người đàn ông khóc to nức nở như vậy.
Năm 1986, tôi và ba về Nam Định lần đầu tiên. Sau ba mươi hai năm, ông một thân một mình ra đi rồi trở về, ba tôi khóc òa, to lắm, vừa khóc vừa mếu máo: "Cô Tí ơi, con đã về đây. Thằng Nam của cô đã về đây".
Khi ấy tôi còn quá trẻ để hiểu tâm trạng của ba, để cảm nhận trong tiếng khóc ấy chứa đựng nhiều nỗi niềm, có cả ray rứt ân hận (vì đứa con duy nhất đã bỏ cha mẹ già ở lại mà vào Nam), và cả niềm vui trùng phùng, được tìm lại, tìm thấy, tìm gặp.
Còn bây giờ, tiếng khóc xé lòng của anh tôi là tiếng khóc đau đớn, mất mát không gì sánh được.
Tôi và em gái liền ra với anh để an ủi anh.
Anh vừa qua cơn bệnh nặng năm ngoái, đang trong quá trình hồi phục, sợ anh xuống tinh thần.
Khi một người ra đi thì những người còn lại sẽ nghĩ gì? Tôi nghĩ, có lẽ, không ngoài chuỗi hồi tưởng miên man về những kỷ niệm.
Đào Duy Khánh Trang là trưởng nữ của anh tôi. Tên của cháu ghép đôi hai địa danh thân thương quê nhà: Diên Khánh - Nha Trang.
Cháu đi học ở Canada năm 18 tuổi và ở lại làm việc đến khi cháu mất vì một căn bệnh hiểm nghèo ở tuổi 33.
Lần gần nhất tôi gặp cháu cách đây 12 năm trong đám cưới của anh cháu. Tôi mở máy tính xem chậm album hôm đám cưới. Cháu tôi, cô gái bé nhỏ, dịu hiền, xinh đẹp, có nụ cười thật tươi, rạng rỡ. Tôi lục tìm những tấm hình ngày cháu còn bé, nhỏ xíu, e thẹn dễ thương làm sao.
Rồi cô cháu chỉ liên lạc qua facebook.
Sống, làm việc ở Canada nhưng cháu rất quan tâm tình hình Việt Nam với những suy nghĩ tích cực và nhân văn. Thỉnh thoảng tôi và cháu có trao đổi những thông tin cháu chưa hiểu. Qua đó, tôi luôn nhìn thấy những suy nghĩ trong sáng và rất lạc quan của cháu. Cô cháu gái hiền hậu, thùy mị, thông minh và có trái tim nhân ái.
Tôi xem lại những album trên facebook của cháu. Tấm hình nào cũng xinh đẹp, căng tràn sức sống.
Tôi gửi cho anh tôi những tấm hình của cháu.
Anh nhắn: "Nhìn nụ cười tỏa nắng của con gái mà thương con vô cùng".
Gia đình lớn của chúng tôi, những ngày này rất buồn, không định viết, muốn để mọi thứ qua đi, nhưng thương cháu quá.
Chúng ta đến thế giới này để nói lời chia tay, mỗi người một cách. Dù biết là như vậy nhưng đau quá, xót quá.
Bé ơi, như một lời chia tay cô Tuyền thương yêu gửi đến con. Thân nhẹ nhàng như mây, con nhé.
(by Cô Tuyền)
Đọc Kinh Vương Tử Bồ Đề
Bài Kinh 85 Trung Bộ Kinh- Kinh Bồ Đề Vương Tử thú vị ghê. Mô tả gần như trọn gói quá trình chứng đạo và hoằng pháp đầu tiên của Đức Phật.

Sống khôn thác thiêng
“Những gia đình nào mà có con cái hiếu thảo thì những gia đình đó được coi là gia đình [có] Phạm thiên”. Đó là câu trong bài kinh "Ngan...
-
Nhặt một tấm hình cũ của hai chị em, nhờ AI sửa giúp. Thật khó nhận ra mình ngày ấy mà chị Phương Thảo nhìn hình thì nói vẫn nhớ những nét c...
-
Trưa nay, chơi với đứa trẻ lên ba. Tôi thì thào, nó thì thào. Tôi hét to, nó hét to theo. Tôi cười to, nó cũng cười to theo. Tôi cố kéo d...