Friday, November 4, 2022

Những bài kinh nói về niết bàn

 


NIỆM NIẾT BÀN

Khi thấy khổ nhân (bị phiền não) hay khổ quả (bị bất toại) cứ suy niệm:

Niết bàn không có như vậy; niết bàn là sự vắng mặt của danh và sắc, của năm uẩn, 12 xứ, 18 giới; niết bàn là sự vắng mặt của nhân và quả; niết bàn không có khổ lạc, niết bàn không có thiện ác. Cách niệm này ngay cả ung thư kỳ cuối tuy không hết bệnh, nhưng giảm đau và giúp ta đủ bình tĩnh để ra đi trong tỉnh táo, thanh thản.


Dưới đây là những bài kinh nói về Niết Bàn

 

NHỮNG BÀI KINH NÓI VỀ NIẾT BÀN

 

DHAMMAPADA  (Kinh Pháp Cú)

202. Natthi rāgasamo aggi,

Natthi dosasamo kali;

Natthi khandhasamā dukkhā,

Natthi santiparaṁ sukhaṁ.

 

 “Lửa nào sánh lửa tham?

Ác nào bằng sân hận?

Khổ nào sánh khổ uẩn,

Lạc nào bằng tịnh lạc.”

 

203. Jighacchāparamā rogā,

saṅkhāraparamā dukhā;

Etaṁ ñatvā yathābhūtaṁ,

nibbānaṁ paramaṁ sukhaṁ.

 

 “Ðói ăn, bệnh tối thượng,

Các hành, khổ tối thượng,

Hiểu như thực là vậy,

Niết Bàn, lạc tối thượng.”

(HT Thích Minh Châu dịch)

 

ITIVUTTAKA 43.  (Phật Thuyết Như Vậy)

AJATASUTTA (KINH KHÔNG SANH)

1. “Atthi bhikkhave, ajātaṃ abhūtaṃ akataṃ asaṅkhataṃ. No ce taṃ bhikkhave, abhavissā ajātaṃ abhūtaṃ akataṃ asaṅkhataṃ, nayidha jātassa bhūtassa katassa saṅkhatassa nissaraṇaṃ paññāyetha. Yasmā ca kho bhikkhave, atthi ajātaṃ abhūtaṃ akataṃ asaṅkhataṃ, tasmā jātassa bhūtassa katassa saṅkhatassa nissaraṇaṃ paññāyatī ”ti.

“Này các tỳ khưu, có cái không sanh—không hiện hữu—không làm ra— không tạo tác. Này các tỳ khưu, nếu không có cái không sanh—không hiện hữu—không làm ra—không tạo tác ấy thì ở đây việc ra khỏi cái sanh—hiện hữu—làm ra—tạo tác không được biết đến. Này các tỳ khưu, bởi vì có cái không sanh—không hiện hữu—không làm ra—không tạo tác, cho nên việc ra khỏi cái sanh—hiện hữu—làm ra—tạo tác được biết đến.”

2. “Jātaṁ bhūtaṁ samuppannaṁ, kataṁ saṅkhatamaddhuvaṁ;

Jarāmaraṇasaṅghāṭaṁ, roganīḷaṁ pabhaṅguraṁ.

Āhāranettippabhavaṁ, nālaṁ tadabhinandituṁ;

 

“Cái sanh—hiện hữu—phát khởi—làm ra—tạo tác là không bền vững, gắn liền với già và chết, cái ổ của bệnh tật, dễ tiêu hoại, có thức ăn và tham ái là nguồn sanh khởi, không xứng đáng để thích thú

 

3. Tassa nissaraṇaṁ santaṁ,  atakkāvacaraṁ dhuvaṁ,

ajātaṁ asamuppannaṁ, asokaṁ virajaṁ padaṁ;

nirodho dukkhadhammānaṁ, saṅkhārūpasamo sukho”ti.

 

 Sự ra khỏi cái ấy là an tịnh, vượt ngoài suy luận, bền vững, không sanh, không phát khởi, không sầu, xa lìa luyến ái, là chỗ tựa, sự tịch diệt các pháp khổ, sự yên lặng các pháp tạo tác, an lạc.”

 

 (Bhikkhu Indacanda dịch)

 

 

ITIVUTTAKA  44.  (Phật Thuyết Như Vậy)

1. “Dvemā, bhikkhave, nibbānadhātuyo. Katamā dve? Saupādisesā ca nibbānadhātu, anupādisesā ca nibbānadhātu.

 “Này các tỳ khưu, đây là hai bản thể của Niết Bàn. Hai bản thể nào? Bản thể Niết bàn còn dư sót và bản thể Niết Bàn không còn dư sót.

2. Katamā ca, bhikkhave, saupādisesā nibbānadhātu? Idha, bhikkhave, bhikkhu arahaṁ hoti khīṇāsavo vusitavā katakaraṇīyo ohitabhāro anuppattasadattho parikkhīṇabhavasaṁyojano sammadaññāvimutto. Tassa tiṭṭhanteva pañcindriyāni yesaṁ avighātattā manāpāmanāpaṁ paccanubhoti, sukhadukkhaṁ paṭisaṁvedeti. Tassa yo rāgakkhayo, dosakkhayo, mohakkhayo—ayaṁ vuccati, bhikkhave, saupādisesā nibbānadhātu.

Và này các tỳ khưu, cái nào là bản thể Niết bàn còn dư sót?

Này các tỳ khưu, ở đây vị tỳ khưu là bậc A-la-hán, có lậu hoặc đã được cạn kiệt, đã được hoàn mãn, có việc cần làm đã làm, có gánh nặng đã được đặt xuống, có mục đích của mình đã được đạt đến, có sự trói buộc ở hữu đã được đoạn tận, đã hiểu biết đúng đắn và đã được giải thoát. Đối với vị ấy, năm giác quan vẫn tồn tại, thông qua trạng thái không bị hủy hoại của chúng vị ấy tiếp nhận đối tượng thích ý hoặc không thích ý, và cảm thọ hạnh phúc hay khổ đau. Cái có cho vị ấy là sự diệt trừ tham, sự diệt trừ sân, sự diệt trừ si. Này các tỳ khưu, cái này gọi là bản thể Niết bàn còn dư sót.

 

3. Katamā ca, bhikkhave, anupādisesā nibbānadhātu?

Idha, bhikkhave, bhikkhu arahaṁ hoti khīṇāsavo vusitavā katakaraṇīyo ohitabhāro anuppattasadattho parikkhīṇabhavasaṁyojano sammadaññāvimutto. Tassa idheva, bhikkhave, sabbavedayitāni anabhinanditāni sīti bhavissanti. Ayaṁ vuccati, bhikkhave, anupādisesā nibbānadhātu. Imā kho, bhikkhave, dve nibbānadhātuyo”ti.

 Và này các tỳ khưu, cái nào là bản thể Niết bàn không còn dư sót?

Này các tỳ khưu, ở đây vị tỳ khưu là bậc A-la-hán, có lậu hoặc đã được cạn kiệt, đã được hoàn mãn, có việc cần làm đã làm, có gánh nặng đã được đặt xuống, có mục đích của mình đã được đạt đến, có sự trói buộc ở hữu đã được đoạn tận, đã hiểu biết đúng đắn và đã được giải thoát. Này các tỳ khưu, đối với vị ấy, ngay ở nơi đây tất cả những gì được cảm thọ là không được thích thú, sẽ trở thành mát lạnh. Này các tỳ khưu, cái này gọi là bản thể Niết bàn không còn dư sót. Này các tỳ khưu, đây là hai bản thể của Niết Bàn.”

 

4. “Duve imā cakkhumatā pakāsitā,

Nibbānadhātū anissitena tādinā;

Ekā hi dhātu idha diṭṭhadhammikā,

Saupādisesā bhavanettisaṅkhayā;

Anupādisesā pana samparāyikā,

Yamhi nirujjhanti bhavāni sabbaso.

 

“Hai bản thể Niết bàn này đã được giảng giải bởi đấng Hữu Nhãn, bậc không bị lệ thuộc, bậc tự tại: Một bản thể, tại đây, ở thời hiện tại, còn dư sót, có sự diệt tận lối dẫn đến các hữu, hơn nữa là (bản thể Niết bàn) không còn dư sót ở thời vị lai, lúc các hữu được diệt tận toàn bộ.

(Bhikkhu Indacanda dịch)

 

 

THERAGATHA (Trưởng Lão Tăng Kệ)

702. Mahāgini pajjalito, anāhāropasammati

Aṅgāresu ca santesu, nibbutoti pavuccati.

Đống lửa lớn cháy rực, không có nhiên liệu thì được lắng dịu, và khi các tro than được lặng yên thì được gọi là ‘tịch tịnh.’

 

703. Atthassāyaṁ viññāpanī, upamā viññūhi desitā;

Viññissanti mahānāgā, nāgaṁ nāgena desitaṁ.

Ví dụ này, giúp cho hiểu rõ về ý nghĩa, đã được thuyết giảng bởi các bậc hiểu biết, các bậc Long Tượng vĩ đại sẽ hiểu được về bậc Long Tượng đã được thuyết giảng bởi bậc Long Tượng.

 

704. Vītarāgo vītadoso, vītamoho anāsavo;

Sarīraṁ vijahaṁ nāgo, parinibbissatyanāsavo”ti.

Có luyến ái đã được xa lìa, có sân hận đã được xa lìa, có si mê đã được xa lìa, không còn lậu hoặc, trong khi dứt bỏ xác thân, bậc Long Tượng sẽ viên tịch Niết Bàn, không còn lậu hoặc.

(Bhikkhu Indacanda dịch)

 

 

KINH TƯ LƯỜNG (Tương Ưng Bộ Kinh)

18) ‘‘Seyyathāpi, bhikkhave, puriso kumbhakārapākā uṇhaṃ kumbhaṃ uddharitvā same bhūmibhāge paṭisisseyya [paṭiviseyya (sī.), patiṭṭhapeyya (syā. kaṃ. pī.), paṭiseveyya (ṭīkā)]. Tatra yāyaṃ usmā sā tattheva vūpasameyya, kapallāni avasisseyyuṃ. Evameva kho, bhikkhave, bhikkhu kāyapariyantikaṃ vedanaṃ vedayamāno kāyapariyantikaṃ vedanaṃ vedayāmīti pajānāti, jīvitapariyantikaṃ vedanaṃ vedayamāno jīvitapariyantikaṃ vedanaṃ vedayāmīti pajānāti. Kāyassa bhedā uddhaṃ jīvitapariyādānā idheva sabbavedayitāni anabhinanditāni sītībhavissanti, sarīrāni avasissantīti pajānāti.

18) Này các Tỷ-kheo, ví như một người từ trong lò nung của người thợ gốm lấy ra một cái ghè nóng và đặt trên một khoảng đất bằng phẳng để sức nóng ở đấy được nguội dần, và các miếng sành vụn được gạt bỏ một bên. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi cảm giác một cảm thọ tận cùng của thân, vị ấy biết: "Ta cảm giác một cảm thọ tận cùng của thân". Khi vị ấy cảm giác một cảm thọ tận cùng của sinh mạng, vị ấy biết: "Ta cảm giác một cảm thọ tận cùng của sinh mạng". Vị ấy biết: "Sau khi thân hoại mạng chung, ở đây tất cả những cảm thọ không làm cho có hỷ lạc, sẽ trở thành vắng lặng, cái thân được bỏ qua một bên".

(HT Thích Minh Châu dịch)

 

No comments:

Post a Comment

Sống khôn thác thiêng

“Những gia đình nào mà có con cái hiếu thảo thì những gia đình đó được coi là gia đình [có] Phạm thiên”. Đó là câu trong bài kinh "Ngan...