NIỆM NIẾT BÀN
Khi thấy
khổ nhân (bị phiền não) hay khổ quả (bị bất toại) cứ suy niệm:
Niết bàn không có như vậy; niết bàn là sự vắng mặt của danh và sắc, của năm uẩn, 12 xứ, 18 giới; niết bàn là sự vắng mặt của nhân và quả; niết bàn không có khổ lạc, niết bàn không có thiện ác. Cách niệm này ngay cả ung thư kỳ cuối tuy không hết bệnh, nhưng giảm đau và giúp ta đủ bình tĩnh để ra đi trong tỉnh táo, thanh thản.
Dưới đây là những bài kinh nói về Niết Bàn
NHỮNG BÀI KINH NÓI VỀ
NIẾT BÀN
DHAMMAPADA (Kinh Pháp
Cú)
202. Natthi rāgasamo
aggi,
Natthi dosasamo kali;
Natthi khandhasamā
dukkhā,
Natthi santiparaṁ
sukhaṁ.
“Lửa nào sánh lửa
tham?
Ác nào bằng sân hận?
Khổ nào sánh khổ uẩn,
Lạc nào bằng tịnh lạc.”
203. Jighacchāparamā
rogā,
saṅkhāraparamā dukhā;
Etaṁ ñatvā yathābhūtaṁ,
nibbānaṁ paramaṁ
sukhaṁ.
“Ðói ăn, bệnh tối thượng,
Các hành, khổ tối thượng,
Hiểu như thực là vậy,
Niết Bàn, lạc tối thượng.”
(HT Thích Minh Châu dịch)
ITIVUTTAKA 43. (Phật Thuyết Như Vậy)
AJATASUTTA (KINH KHÔNG SANH)
1. “Atthi bhikkhave,
ajātaṃ abhūtaṃ akataṃ asaṅkhataṃ. No ce taṃ bhikkhave, abhavissā ajātaṃ abhūtaṃ
akataṃ asaṅkhataṃ, nayidha jātassa bhūtassa katassa saṅkhatassa nissaraṇaṃ
paññāyetha. Yasmā ca kho bhikkhave, atthi ajātaṃ abhūtaṃ akataṃ asaṅkhataṃ,
tasmā jātassa bhūtassa katassa saṅkhatassa nissaraṇaṃ paññāyatī ”ti.
“Này các tỳ khưu, có cái không sanh—không hiện hữu—không làm
ra— không tạo tác. Này các tỳ khưu, nếu không có cái không sanh—không hiện hữu—không
làm ra—không tạo tác ấy thì ở đây việc ra khỏi cái sanh—hiện hữu—làm ra—tạo tác
không được biết đến. Này các tỳ khưu, bởi vì có cái không sanh—không hiện hữu—không
làm ra—không tạo tác, cho nên việc ra khỏi cái sanh—hiện hữu—làm ra—tạo tác được
biết đến.”
2. “Jātaṁ bhūtaṁ
samuppannaṁ, kataṁ saṅkhatamaddhuvaṁ;
Jarāmaraṇasaṅghāṭaṁ,
roganīḷaṁ pabhaṅguraṁ.
Āhāranettippabhavaṁ,
nālaṁ tadabhinandituṁ;
“Cái sanh—hiện hữu—phát khởi—làm ra—tạo tác là không bền vững,
gắn liền với già và chết, cái ổ của bệnh tật, dễ tiêu hoại, có thức ăn và tham
ái là nguồn sanh khởi, không xứng đáng để thích thú
3. Tassa nissaraṇaṁ
santaṁ, atakkāvacaraṁ dhuvaṁ,
ajātaṁ asamuppannaṁ,
asokaṁ virajaṁ padaṁ;
nirodho
dukkhadhammānaṁ, saṅkhārūpasamo sukho”ti.
Sự ra khỏi cái ấy là
an tịnh, vượt ngoài suy luận, bền vững, không sanh, không phát khởi, không sầu,
xa lìa luyến ái, là chỗ tựa, sự tịch diệt các pháp khổ, sự yên lặng các pháp tạo
tác, an lạc.”
(Bhikkhu Indacanda dịch)
ITIVUTTAKA 44. (Phật
Thuyết Như Vậy)
1. “Dvemā, bhikkhave,
nibbānadhātuyo. Katamā dve? Saupādisesā ca nibbānadhātu, anupādisesā ca
nibbānadhātu.
“Này các tỳ khưu, đây
là hai bản thể của Niết Bàn. Hai bản thể nào? Bản thể Niết bàn còn dư sót và bản
thể Niết Bàn không còn dư sót.
2. Katamā ca,
bhikkhave, saupādisesā nibbānadhātu? Idha, bhikkhave, bhikkhu arahaṁ hoti khīṇāsavo
vusitavā katakaraṇīyo ohitabhāro anuppattasadattho parikkhīṇabhavasaṁyojano
sammadaññāvimutto. Tassa tiṭṭhanteva pañcindriyāni yesaṁ avighātattā
manāpāmanāpaṁ paccanubhoti, sukhadukkhaṁ paṭisaṁvedeti. Tassa yo rāgakkhayo,
dosakkhayo, mohakkhayo—ayaṁ vuccati, bhikkhave, saupādisesā nibbānadhātu.
Và này các tỳ khưu, cái nào là bản thể Niết bàn còn dư sót?
Này các tỳ khưu, ở đây vị tỳ khưu là bậc A-la-hán, có lậu hoặc
đã được cạn kiệt, đã được hoàn mãn, có việc cần làm đã làm, có gánh nặng đã được
đặt xuống, có mục đích của mình đã được đạt đến, có sự trói buộc ở hữu đã được đoạn
tận, đã hiểu biết đúng đắn và đã được giải thoát. Đối với vị ấy, năm giác quan
vẫn tồn tại, thông qua trạng thái không bị hủy hoại của chúng vị ấy tiếp nhận đối
tượng thích ý hoặc không thích ý, và cảm thọ hạnh phúc hay khổ đau. Cái có cho
vị ấy là sự diệt trừ tham, sự diệt trừ sân, sự diệt trừ si. Này các tỳ khưu,
cái này gọi là bản thể Niết bàn còn dư sót.
3. Katamā ca,
bhikkhave, anupādisesā nibbānadhātu?
Idha, bhikkhave,
bhikkhu arahaṁ hoti khīṇāsavo vusitavā katakaraṇīyo ohitabhāro
anuppattasadattho parikkhīṇabhavasaṁyojano sammadaññāvimutto. Tassa idheva,
bhikkhave, sabbavedayitāni anabhinanditāni sīti bhavissanti. Ayaṁ vuccati,
bhikkhave, anupādisesā nibbānadhātu. Imā kho, bhikkhave, dve nibbānadhātuyo”ti.
Và này các tỳ khưu,
cái nào là bản thể Niết bàn không còn dư sót?
Này các tỳ khưu, ở đây vị tỳ khưu là bậc A-la-hán, có lậu hoặc
đã được cạn kiệt, đã được hoàn mãn, có việc cần làm đã làm, có gánh nặng đã được
đặt xuống, có mục đích của mình đã được đạt đến, có sự trói buộc ở hữu đã được đoạn
tận, đã hiểu biết đúng đắn và đã được giải thoát. Này các tỳ khưu, đối với vị ấy,
ngay ở nơi đây tất cả những gì được cảm thọ là không được thích thú, sẽ trở
thành mát lạnh. Này các tỳ khưu, cái này gọi là bản thể Niết bàn không còn dư
sót. Này các tỳ khưu, đây là hai bản thể của Niết Bàn.”
4. “Duve imā
cakkhumatā pakāsitā,
Nibbānadhātū
anissitena tādinā;
Ekā hi dhātu idha diṭṭhadhammikā,
Saupādisesā
bhavanettisaṅkhayā;
Anupādisesā pana
samparāyikā,
Yamhi nirujjhanti
bhavāni sabbaso.
“Hai bản thể Niết bàn này đã được giảng giải bởi đấng Hữu
Nhãn, bậc không bị lệ thuộc, bậc tự tại: Một bản thể, tại đây, ở thời hiện tại,
còn dư sót, có sự diệt tận lối dẫn đến các hữu, hơn nữa là (bản thể Niết bàn) không
còn dư sót ở thời vị lai, lúc các hữu được diệt tận toàn bộ.
(Bhikkhu Indacanda dịch)
THERAGATHA (Trưởng
Lão Tăng Kệ)
702. Mahāgini
pajjalito, anāhāropasammati
Aṅgāresu ca santesu, nibbutoti
pavuccati.
Đống lửa lớn cháy rực, không có nhiên liệu thì được lắng dịu,
và khi các tro than được lặng yên thì được gọi là ‘tịch tịnh.’
703. Atthassāyaṁ
viññāpanī, upamā viññūhi desitā;
Viññissanti mahānāgā,
nāgaṁ nāgena desitaṁ.
Ví dụ này, giúp cho hiểu rõ về ý nghĩa, đã được thuyết giảng
bởi các bậc hiểu biết, các bậc Long Tượng vĩ đại sẽ hiểu được về bậc Long Tượng
đã được thuyết giảng bởi bậc Long Tượng.
704. Vītarāgo
vītadoso, vītamoho anāsavo;
Sarīraṁ vijahaṁ nāgo,
parinibbissatyanāsavo”ti.
Có luyến ái đã được xa lìa, có sân hận đã được xa lìa, có si
mê đã được xa lìa, không còn lậu hoặc, trong khi dứt bỏ xác thân, bậc Long Tượng
sẽ viên tịch Niết Bàn, không còn lậu hoặc.
(Bhikkhu Indacanda dịch)
KINH TƯ LƯỜNG (Tương
Ưng Bộ Kinh)
18) ‘‘Seyyathāpi, bhikkhave, puriso kumbhakārapākā uṇhaṃ
kumbhaṃ uddharitvā same bhūmibhāge paṭisisseyya [paṭiviseyya (sī.), patiṭṭhapeyya
(syā. kaṃ. pī.), paṭiseveyya (ṭīkā)]. Tatra yāyaṃ usmā sā tattheva vūpasameyya,
kapallāni avasisseyyuṃ. Evameva kho, bhikkhave, bhikkhu kāyapariyantikaṃ vedanaṃ
vedayamāno kāyapariyantikaṃ vedanaṃ vedayāmīti pajānāti, jīvitapariyantikaṃ
vedanaṃ vedayamāno jīvitapariyantikaṃ vedanaṃ vedayāmīti pajānāti. Kāyassa
bhedā uddhaṃ jīvitapariyādānā idheva sabbavedayitāni anabhinanditāni
sītībhavissanti, sarīrāni avasissantīti pajānāti.
18) Này các Tỷ-kheo, ví như một người từ trong lò nung của
người thợ gốm lấy ra một cái ghè nóng và đặt trên một khoảng đất bằng phẳng để
sức nóng ở đấy được nguội dần, và các miếng sành vụn được gạt bỏ một bên. Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, khi cảm giác một cảm thọ tận cùng của thân, vị ấy biết:
"Ta cảm giác một cảm thọ tận cùng của thân". Khi vị ấy cảm giác một cảm
thọ tận cùng của sinh mạng, vị ấy biết: "Ta cảm giác một cảm thọ tận cùng
của sinh mạng". Vị ấy biết: "Sau khi thân hoại mạng chung, ở đây tất
cả những cảm thọ không làm cho có hỷ lạc, sẽ trở thành vắng lặng, cái thân được
bỏ qua một bên".
(HT Thích Minh Châu dịch)
No comments:
Post a Comment