Bài Kinh 85 Trung Bộ Kinh- Kinh Bồ Đề Vương Tử thú vị ghê. Mô tả gần như trọn gói quá trình chứng đạo và hoằng pháp đầu tiên của Đức Phật.
-----
* Ông Vương Tử Bồ Đề này quy y Phật 3 lần khi còn trong bụng mẹ và khi bà vú ẵm nách (Đoạn 346).
Theo Chú giải, ông Vương tử Bồ-đề không con, mong muốn có một con trai. Ông nghe nói cúng Phật thì có thể thỏa mãn ước nguyện, nên trải một tấm vải trắng và nguyện: nếu Phật dẫm lên tấm vải, thì ông sẽ có con trai; nếu Phật không dẫm lên tấm vải thì không. Thế nhưng Phật đã không dẫm lên tấm vải, bởi biết do ác nghiệp quá khứ nên ông không thể có con. Kiếp xưa vợ chồng ông là thương buôn chìm tàu dạt trên đảo hoang. Không có gì ăn họ ăn toàn trứng chim suốt. Do tội ăn trứng, lúc ăn thì cũng biết mình ăn mầm sống, nên đời đời sinh ra không con. (Có lẽ bạn nào hiếm muộn cũng không nên ăn trứng). Hơn nữa, Ngài không làm như vậy bởi nếu thiên hạ cứ vì cung kính chư tăng mà được thỏa nguyện thì sau này họ sẽ không cung kính nữa nếu mong cầu của họ không được đáp ứng. (Đoạn 325)
------
Đoạn 327-328 nói về quá trình học với những vị thầy: Alara Kalama, Uddaka Ramaputta, chứng Phi tưởng phi phi tưởng.
Ngài học hết bài của mấy ổng, tốt nghiệp hạng xuất sắc, được giữ lại trường giảng dạy luôn. Ông thầy Uddaka Ramaputta nói: "Tôi như thế nào, Hiền giả là như vậy; Hiền giả như thế nào, tôi là như vậy. Nay hãy đến đây, Hiền giả, hai chúng ta hãy chăm sóc hội chúng này!"
Nhưng Ngài chê: "Pháp này không hướng đến yểm ly, không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn, mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Phi tưởng phi phi tưởng xứ".
Rồi Ngài bỏ đi tiếp.
-----
Ngài nghĩ rằng nếu muốn chứng đắc cần phải buông bỏ những khát vọng về thân cũng như về tâm.
"Cũng vậy, này Vương tử, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn sống xả ly các dục về thân, những gì đối với các vị ấy thuộc các dục, như dục tham, dục ái, dục hôn ám, dục khác vọng, dục nhiệt não, về nội tâm được khéo đoạn trừ. Nếu những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn này thình lình cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt, các vị ấy có thể chứng được tri kiến vô thượng Chánh Ðẳng Giác. Và nếu những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn này không thình lình cảm thọ những cảm giác khổ đau, kịch liệt, khốc liệt, các vị này cũng có thể chứng được tri kiến vô thượng Chánh Ðẳng Giác. Này Vương tử, đó là ví dụ thứ ba, vi diệu, từ trước chưa từng được nghe, được khởi lên nơi Ta."
Sau đó là quá trình hành xác, tu thiền nín thở, nhịn ăn vv.. đến sắp chết, chư thiên vẫn tìm cách duy trì sự sống của Ngài. Và cuối cùng Ngài ăn trở lại, vì có khổ hạnh đau đớn cũng không thể chứng đạo.
--------
Từ đoạn 335 bắt đầu nói về quá trình đắc chứng Tam Minh của Ngài.
"...Này Vương tử, đó là minh thứ ba mà Ta đã chứng được trong canh cuối, vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm tinh cần."
Ngài dạy muốn tu chứng phải có 5 tinh cần chi:
1. Tin Phật;
2. Có sức khỏe, ít bệnh;
3. Trung thực không gian trá;
4. Siêng năng từ bỏ các bất thiện và tu tập thiện pháp;
5. Có trí tuệ về sự sinh diệt của các pháp.
Nếu như vậy thì vị ấy có thể đắc lậu tận trong bảy năm. Cũng có thể là sáu, năm, bốn, ba, hai, một năm, cho đến bảy tháng, sáu, năm, bốn, ba, hai, một, nửa tháng, cho đến bảy đêm ngày. Lại có thể có người được giảng dạy buổi sáng thì buổi chiều đã chứng đắc. (Đoạn 345)
------
Sau khi chứng đạo, Ngài thấy rằng thật khó mà nói cho thế gian hiểu đạo của Ngài.
"Pháp này do Ta chứng được, thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ người trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng này thì ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục. Ðối với quần chúng ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục, thật khó mà thấy được định lý Idapaccàyata Paticcasamuppada (Y Tánh Duyên Khởi Pháp); sự kiện này thật khó thấy; tức là sự tịnh chỉ tất cả hành, sự trừ bỏ tất cả sanh y, ái diệt, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn. Nếu nay Ta thuyết pháp mà các người khác không hiểu Ta, thời như vậy thật khổ não cho Ta, như vậy thật bực mình cho Ta!"
Pháp do Ngài chứng mà Ngài còn thấy khó nói nữa, vậy mà các facebookers chúng ta biết tí xíu như hột mè lại cứ thích vanh vách giảng cho người này người kia kiểu khoe pháp. :)))
-----
Phạm Thiên Sahampati đã thỉnh Ngài thuyết pháp. Nếu không có ông này có lẽ chúng ta giờ cũng mù tịt về đạo Phật. Đời đời nhớ ơn ổng sống mãi trong đạo nghiệp của chúng ta.
. Ổng nói, căn cơ chúng sanh đủ kiểu đủ cỡ như hoa sen trong hồ, có người này người kia, xin Ngài hãy từ bi mà thuyết. (Đoạn 339). Nếu như ngài Sahampati xuống vào thời này, ắt sẽ nói, còn có loại sen đột biến nữa thưa Phật....

------
Và Ngài nói với Phạm Thiên Sahampati một bài kệ
‘Apārutā tesaṃ amatassa dvārā,
Ye sotavanto pamuñcantu saddhaṃ;
Vihiṃsasaññī paguṇaṃ na bhāsiṃ,
Dhammaṃ paṇītaṃ manujesu brahme.
Sở dĩ mình ghi Pali ra đây, vì bên PG Tích Lan cho rằng bài kệ này là gần giống như câu thần chú hộ thân, khi nào trong cuộc sống gặp sự rắc rối cần sự suôn sẻ, cứ chuyên tâm tụng câu này trong thời gian ngắn thì cái gì cũng xong. Nếu không giải quyết được thì tối thiểu cũng được sự yên tâm.
Nếu trong tiếng Việt có những bài thơ đọc từ dưới lên vẫn đầy đủ ý nghĩa và giữ nguyên nghĩa thì bài thơ Pali này cũng đặc biệt như vậy.
HT Thích Minh Châu dịch Việt:
Cửa bất tử rộng mở, cho những ai chịu nghe.
Hãy từ bỏ tín tâm, không chính xác của mình.
Tự nghĩ đến phiền toái, Ta đã không muốn giảng,
Tối thượng vi diệu pháp, Giữa chúng sanh loài Người.
(Ôi Phạm thiên)
Sư GN dịch:
"Cánh cửa bất tử nay đã được mở ra, những ai có tai để nghe xin mở rộng niềm tin của mình. Từ lâu lắm rồi (pagunam: thời gian rất dài) chỉ nghĩ đến chuyện mệt mỏi (Vihimsasaññī), nên ta đã không có nói pháp vi diệu cho chúng sinh, này Phạm Thiên (Brahme). Dịch ngược lại từ hàng cuối cùng lên nghĩa vẫn giống nhau: Này Phạm Thiên, từ lâu lắm rồi, chỉ nghĩ đến mệt mỏi, pháp này là pháp ngược dòng, nói cho người nghe không phải là chuyện dễ dàng, đơn giản, nên ta đã không có lòng nói pháp.
Câu Pāḷi này đặc biệt là dịch ngược từ hàng cuối cùng và chữ cuối cùng, câu số 1 xuống câu số 4 và câu số 4 lên câu số 1 đều nghĩa giống nhau; đọc ngược cũng được đọc xuôi cũng được, chính là lý do giúp cho mọi sự được suôn sẻ giống như bài kệ này, trên xuống hay dưới lên, kiểu nào cũng ok." (Trích NKCBK)
Đó là những gì thú vị của bài kinh. Mời quí vị thưởng thức Pali -Việt ở đây:
No comments:
Post a Comment