Việc tiếp tay cứu trợ cũng đã xong, vậy mà khi họ biết và tìm tới với những hoàn cảnh quá là hoàn cảnh thì không thể từ chối được. Thế là xuất tiền túi... Tự hứa không đọc mạng nữa, toàn những chuyện thương tâm. Phải an trú vào niệm xứ, vào kinh điển, mới qua được những ngày tháng bi thương này.
--------------------
Vô tướng tâm giải thoát là
gì? Trong Chú giải giải thích, Animittācetovimuttīti
balavavipassanā, Vô tướng tâm giải
thoát nghĩa là Tuệ quán miên mật.
‘Balavavipassanā’: tuệ quán miên mật.
‘Balava’: mãnh liệt.
Có ba hạng hành giả:
- Bậc hạ: thời gian thiền
tọa thiền hành tùy thuộc cái đồng hồ. Sau khi hết giờ thiền tọa thiền hành thì
quậy bung lụa, ăn chơi, karaoke, đua xe… trở về với bản năng.
- Bậc trung: ngoài giờ thiền
tọa thiền hành thì quẩn quanh trú xứ làm việc lành như nghe pháp, quét dọn, xem
kinh….; vì còn thất niệm nên gọi là bậc trung.
- Bậc thượng: không có giờ
thiền tọa hay thiền hành mà họ thiền tọa cho đến bao giờ thấy đủ họ đứng dậy đi;
đi bao giờ cho thấy đủ thì họ đi nằm hoặc đi làm việc gì đó. Trong suốt một
ngày tâm tư của hành giả bậc thượng không có hề có sự khác biệt nào giữa phút
giây này với phút giây khác. Ngay từ trên giường là biết rõ tôi đang nằm, biết rõ tâm trạng cảm xúc của tôi như thế nào,
hoặc nằm theo dõi hơi thở ra vào ra vào. Khi thấy đủ rồi thì vị này bước xuống
giường thì và bắt đầu một ngày mới với toàn bộ chánh niệm. Hạng này được gọi là
Balavavipassanā – tuệ quán miên mật.
Đức Phật dạy, một người an
trú trong tuệ quán miên mật như vậy thì họ không có tiếp tục sống trong sự ôm
ấp chấp giữ thế giới hiện tượng nữa. Thế giới hiện tượng là những gì làm cho
mình khổ, “cái đó là cái tôi thích”, “cái
đó là cái tôi ghét”, “đó là người tôi thương”, “đó là người tôi không ưa”, “cái
này đắt tiền, cái này rẻ tiền”, “tại sao cho tôi cái này mà không cho tôi cái
kia”…, đó được gọi là chấp tướng. Một vị hành giả tu tập tuệ quán miên mật
thì vị đó không bị trói buộc bởi những ngoại tướng phân biệt như vậy nữa. Bởi
vì ở đây là vô tướng mà, vô tướng tâm giải thoát nghĩa là không
bị chấp vào các ngoại tướng tục đế chế định, biến kế sở chấp thi thiết nữa. Cái
chén mẻ hay cái chén lành họ thấy giống nhau, thức ăn vừa miệng hay không vừa
miệng đối với họ giống nhau. Không phải họ u mê mất trí lú lẫn hay khờ khạo như
đứa bé, không phải họ không biết canh khoai khác canh chua khác canh bí, mà
không phân biệt nghĩa là ‘sao cũng được’. Họ biết hết nhưng sao cũng được. Hồi nãy
nghe nói trưa nay ăn mướp xào với măng nhưng bây giờ nhà bếp báo không có măng
thì họ thấy cũng bình thường. Người kia mới sáng nặng lời với họ, bây giờ háy
nguýt lườm liếc họ thấy cũng bình thường. Người kia quý mến họ lắm, đi ngang kính
cẩn chào miệng cười rất thân thiện, họ thấy cũng bình thường. Cứ phần mình mình
đi, chuyện mình mình làm, đường mình mình đi. Đó gọi là vô tướng, không còn
phân biệt. Tất cả đối với họ chỉ là danh sắc, chỉ là năm uẩn, chỉ là sanh diệt
thôi. Bởi vì, có ba hạng: 1. Khi chưa biết đạo thì chạy theo cái thích và trốn
cái ghét; 2. Biết đạo ba mớ thì quan tâm đến cái thiện, ghét cái ác; 3. Hạng
cao cấp nhất, trong mắt của họ thiện ác buồn vui chỉ là cảnh sanh diệt mà thôi.
Đối với họ cảnh buồn vui đề là cảnh đề mục. Ví dụ họ đang theo dõi đề mục hơi
thở, thở ra biết rõ đang thở ra, chỉ quan sát chứ không điều khiển, hơi thở ra
hết cỡ tự động nó vào, nó vào hết cỡ tự động nó ra. Có như vậy mới thấy cái
thân này không phải của mình. Mình có nghĩ tới nó hay không nó vẫn cứ ra cứ
vào. Lúc đang theo dõi như vậy thì có một tâm sân bực mình xuất hiện biết đây
là sân.
Người không học giáo lý thì
khỏi nói, họ cứ nghĩ sáng hôm nay tôi buồn quá, trưa nay tôi có nhiều chuyện
buồn quá, tuần này tôi có nhiều chuyện buồn quá, năm nay tôi nhiều chuyện buồn,
tháng này tôi nhiều chuyện buồn, nãy giờ tôi bực mình quá, nãy giờ tôi vui lắm
v.v... Đơn vị thời gian của người không học giáo lý hoặc không tu tập Tứ Niệm
Xứ rất dài. Đối với người tu tập Tứ Niệm Xứ thì họ thấy khác, đơn vị thời gian
không còn là ngày giờ mà là trong từng khoảnh khắc tâm lý: tâm tham đang có mặt, tâm sân đang có mặt… Nhưng lên ở mức rốt ráo
họ thấy tâm sân vừa biến mất. Bởi vì khi mà ta nhận diện đây là tâm sân thì lúc
đó tâm sân đã mất nhường chỗ cho cái tâm nhìn nó. Không bao giờ có hai tâm cùng
một cho nên khi thấy tâm sân có mặt thì lúc đó tâm sân đã mất tiêu rồi, cái tâm
thấy nó đã thế chỗ cho tâm sân.
Nắm được mấy cái này lỡ mai
mốt có bị trọng bệnh thì ôm cái này mà sống, mai mốt có đi thiền viện thì cũng
ôm cái này mà tu. Phải nắm được giáo lý để mai mốt có trôi dạt cuối trời, một
nơi không có thầy bạn tăng ni chùa miểu thì vẫn có cái để tu. Chứ còn căn bản giáo
lý không có, lúc còn trẻ thì sao cũng được chứ già bịnh rồi thì tu cái gì.
Vô tướng tâm giải thoát là
vậy đó, khi vị đó tu tập tuệ quán một cách miên mật tinh tấn rốt ráo thì đối
với vị đó không còn cái gì gọi là ngoại tướng để chấp nữa, bởi vì những gì mình
thấy nó đều là vừa mất đi, vừa diệt đi mà. Ngày xưa nó còn vuông tròn dài ngắn
xanh vàng đỏ tím, còn bây giờ mọi thứ mình vừa thấy nó thì nó đã mất rồi. Cho
nên đây là lý do vì đâu một người tu tập đã tuệ quán miên mật, (balavavipassanā)
thì gọi là vô tướng tâm giải thoát.
Nhìn thấy cái gì cũng là không có ngoại tướng, nhìn là mất tiêu.
No comments:
Post a Comment